Nói đến vấn đề cơ chế chính sạch tạo điều kiện cho phát triển sản xuất kinh doanh thời gian vừa qua, một thay đổi quan trọng về mặt chiến lược là nhà nước đã dỡ bỏ nhiều rào cản để giải phóng nguồn lực trong xã hội để người dân và DN được tự do phát triển kinh doanh Chính phủ đã nỗ lực liên tục đổi mới các qui định giúp DN ra nhập thị trường. Các chính sách cũng hướng tới tôn trọng quyền tự do kinh doanh của người dân và doanh nghiệp. Nhà nước đã tích cực đàm phán các hiệp định quốc tế, giúp các doanh nghiệp mở rộng thị trường,Chính phủ cũng thường xuyên ra soát pháp luật về kinh doanh …

Tuy nhiên, các cải cách của Chính Phủ để phát triển sản xuất kinh doanh thời gian qua vẫn ở mức tự do hóa và cũng chưa phải triệt để. Nhiều điều kiện kinh doanh dưới các hình thức giấy phép, chứng chỉ, chấp nhận, qui hoạch, kế hoạch với các căn cứ còn chung chung, trừu tượng vẫn đang là sức cản giải phóng nguồn lực này.Cải cách cần nâng lên một tầm mới là thuận lợi hóa đối với hoạt động sản xuất kinh doanh.

Thuận lợi hóa đối với hoạt động sản xuất kinh doanh tức là từ chính sách đến thực thi cần phải tạo điều kiện tốt nhất với chi phí thấp nhất, thời gian ngắn nhất nguồn lực được phát huy cao nhất để cuối cùng là hàng hóa, dịch vụ có khả năng cạnh tranh cao nhất trên thị trường trong nước và quốc tế. Để giải quyết vấn đề này chúng ta cần có sự quyết tâm của chính quyền ở mọi cấp, sự nỗ lực đồng thuận của DN.

Tuy vậy, vấn đề hỗ trợ DNVVN vẫn còn kém hiệu quả và chưa thiết thực. Chúng ta cần phải có một cơ quan chuyên trách về hỗ trợ DNVVN có trách nhiện cao thuộc Chính phủ. Một số quốc gia thậm chí còn có cả một bộ về DNVVN. Trong bối cảnh kinh tế nước ta hiện nay, việc có một cơ quan chính phủ được đảm bảo đầy đủ quyền năng và nguồn lực để hỗ trợ DNVVN là rất cần thiết.

Chính sách đã có quy định các chính sách hỗ trợ DNVVN như tín dụng, công nghệ, đất đai, nguồn nhân lực… nhưng về một số bộ, ngành, địa phương thì các chính sách này không còn thực thi được. Thực tế chính quyền địa phương đang có những cơ chế ưu tiên, ưu đãi hơn cho khu vực DNNN và DN FDI. Như đã nói, cơ quan đặc trách về DNVVN trong chính phủ , đồng thời phải thể hiện tiếng nói của DNVVN trong Chính phủ, đồng thời có trách nhiệm giúp đỡ các tổ chức hiệp hội DNVVN hoạt động có hiệu quả.

Bên cạnh đó, các chính sách hỗ trợ, ưu tiên DNVVN cũng cần rõ rang, cụ thể cà thực tế hơn. Ví dụ, một số quốc gia có quy định cụ thể việc đấu thầu, mua sắm công phải để DNVVN tham gia tối thiểu 30%. Hiện nay, DNVVN đang cạnh tranh không bình đẳng với các DNNN và DN FDI. Chính phủ cần rà soát toàn bộ các văn bản quy phạm phát luật về hỗ trợ DNVVN xem nó đã tốt chưa, những văn bản nào vẫn còn đang “nằm trên giấy” vướng mắc thực hiện ở khâu nào, ai phải chịu trách nhiệm tháo gỡ.

Nhà nước cũng cần phải định vị lại vai trò của DNNN. Khu vực này chỉ nên làm những việc mà các khu vực khác không muốn làm hoặc không làm được. Nếu phải duy trì thì DNNN cần phải tiên phong trong năng xuất, chất lượng, hiệu quả, phải liên kết được với các DN trong và ngoài nước tham gia vào lĩnh vực mới. Nhìn chung, Nhà nước không nhất thiết phải kiếm lợi nhuận mà cần tập trung và kiến tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh doanh. Thông điệp của Thủ tướng cũng đã khẳng định, Nhà nước không làm thay dân mà phải tập trung xây dựng khuôn khổ thể chế phù hợp và tạo điều kiện cần thiết để mọt người phát huy năng lực và sức sáng tạo vì lợi ích của chính mình và đóng góp cho xã hội.