I. ĐẶT VẤN ĐỀ.

Hiệp định TBT là một trong 14 hiệp định về thương mại hàng hoá của WTO. Hiệp định đưa ra các nghĩa vụ, nguyên tắc mà Thành viên phải thực hiện khi xây dựng và thực thi các biện pháp kỹ thuật trong hoạt động thương mại của mình.

Theo WTO, các biện pháp kỹ thuật không mang tính bảo hộ vì mục đích là để thực thi các mục tiêu hợp pháp như bảo đảm chất lượng hàng xuất khẩu, bảo đảm an toàn, sức khoẻ của người tiêu dùng, cây trồng và vật nuôi, bảo vệ môi trường sinh thái và an ninh quốc gia của chúng, chống gian lận thương mại… Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng và áp dụng các biện pháp kỹ thuật để thực thi các mục tiêu hợp pháp này, các trở ngại đối với thương mại cũng vẫn phát sinh. Song những trở ngại này là cần thiết vì phải bảo vệ lợi ích trước mắt cũng như lâu dài của cộng đồng. Những biện pháp kỹ thuật được coi là những trở ngại không cần thiết cho thương mại nếu chúng được xây dựng và áp dụng (vô tình hoặc hữu ý) không vì những mục tiêu hợp pháp nêu trên.

Khi gia nhập WTO, Việt Nam đã cam kết tuân thủ toàn bộ nghĩa vụ theo Hiệp định TBT yêu cầu, mà không có thời gian chuyển đổi. Bên cạnh đó, để tăng cường tính dự báo trước và công khai minh bạch, Việt Nam còn cam kết ban hành các quy định nhằm cụ thể hoá các điều khoản liên quan đến quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp.

Mục tiêu của Đề án triển khai thực hiện Hiệp định hàng rào kỹ thuật trong thương mại giai đoạn 2005-2010 (gọi tắt là Đề án TBT giai đoạn 2005-2010) được nêu trong Quyết định số 444/QĐ-TTg ngày 26/5/2005 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án TBT giai đoạn 2005-2010 là nhằm để hỗ trợ việc gia nhập WTO của Việt Nam về khía cạnh đàm phán cam kết thực thi Hiệp định TBT của WTO và bảo đảm thực thi đầy đủ các nghĩa vụ đã cam kết đối với Hiệp định TBT khi gia nhập WTO.

Nhìn chung, sau 5 năm triển khai Đề án, các biện pháp quản lý nhà nước nhằm đảm bảo an toàn, vệ sinh, bảo vệ môi trường cũng như công bằng xã hội và xử lý các vấn đề bức xúc trong cuộc sống hàng ngày đã được các Bộ, ngành và địa phương quan tâm nghiên cứu, đáp ứng và thực hiện theo phương thức công khai, minh bạch hơn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và môi trường tốt hơn. Các doanh nghiệp chủ động hơn trong việc nắm bắt, tìm hiểu thông tin về TBT, cũng như đối phó với các khó khăn trở ngại tại thị trường xuất khẩu; thông qua đó tăng cường khả năng tiếp cận và năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế. Các biện pháp bảo vệ sản xuất, kinh doanh trong nước từng bước được quan tâm và coi trọng. (tiếp theo)

(Lê Bích Ngọc

Văn phòng TBT Việt Nam)