Nền kinh tế cũng không thể tăng trưởng bền vững nếu từng doanh nghiệp (DN) gặp hạn chế trong khả năng cạnh tranh và tạo giá trị gia tăng (GTGT). Bài viết xem xét những thách thức đối với việc nâng cao GTGT của doanh nghiệp (DN) trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới và khu vực, trên ba góc độ: Khả năng cạnh tranh của bản thân DN; Vị trí của DN trong chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu; Cấu trúc ngành công nghiệp Việt Nam.

Khả năng cạnh tranh của DN Việt Nam còn thấp

Khả năng cạnh tranh của DN có thể được nhìn nhận theo các hoạt động bổ trợ (kết cấu hạ tầng “mềm” của DN, chất lượng và quản trị lao động, trình độ công nghệ) và các hoạt động cơ bản (hậu cần bên trong và bên ngoài DN, sản xuất, marketing, phân phối…) (Hình 1). Đã có nhiều điều tra, đánh giá về khả năng cạnh tranh của DN Việt Nam. Nhận định chung là khả năng cạnh tranh của DN Việt Nam còn yếu cả trong các hoạt động bổ trợ và cả trong các hoạt động cơ bản, đặc biệt là các hoạt động liên quan đến mối liên kết hiệu quả về mặt chi phí.

Khả năng cạnh tranh của DN Việt Nam vẫn được nhìn nhận là tương đối thấp ngay cả với mức bảo hộ còn tương đối cao. Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu rộng hơn một khi đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và các hiệp định thương mại tự do (FTAs), DN có nhiều cơ hội tận dụng lợi thế nhờ qui mô kinh tế (như: tiếp cận, mở rộng thị trường), song sẽ phải đối mặt với cạnh tranh gay gắt do bảo hộ giảm mạnh, nhiều thị trường phải mở cửa cho các công ty nước ngoài.

Theo một tính toán trên cơ sở các cam kết WTO, CEPT và ASEAN-Trung Quốc, tỷ lệ bảo hộ hữu hiệu (ERP) của Việt Nam, dù giảm đáng kể sau 2007, song nhìn chung vẫn cao gấp hai lần tỷ lệ bảo hộ danh nghĩa (NRP) (Bảng 1). ERP đôi với công nghiệp chế biến còn cao, trong khi đối với các ngành nông nghiệp và khai khoáng tương đối thấp. Như vậy, việc xem xét cam kết cắt giảm thuế quan cần được nhìn nhận một cách tổng thể và chi tiết theo từng nhóm ngành hàng, cả mức độ cắt giảm thuế quan trung bình và mức độ bảo hộ thực tế.

Sức mạnh độc quyền/chi phối thị trường của nhiều DN trong nước (vốn nếu có) cũng khó được duy trì lâu. Hơn nữa, theo quy định của WTO và nhiều cam kết khu vực, các biện pháp can thiệp truyền thống của Nhà nước nhằm ưu ái một số ngành/DN hoặc tạo lợi thế cho DN trong nước so với các công ty nước ngoài cũng sẽ bị hạn chế đáng kể. Như vậy, việc nâng cao GTGT và khả năng cạnh tranh của DN phụ thuộc rất lớn vào nỗ lực của bản thân DN.

Thực tế, WTO vẫn cho phép sử dụng một số biện pháp hỗ trợ. Tuy nhiên, chiến lược, chính sách công nghiệp/ngành có hiệu quả và thống nhất với những quy định của WTO cần mang tính toàn diện, bao trùm cả nền kinh tế hơn là hướng tới một số ngành/DN nhất định dựa trên sự ưu ái. Vai trò nhà nước trong phát triển không hề giảm. Nhưng, Nhà nước về cơ bản sẽ chuyển trọng tâm chính sách sang cải thiện hệ thống kết cấu hạ tầng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, và tạo ra một môi trường khuyến khích đầu tư, cạnh tranh và đổi mới/chuyển giao công nghệ.

Lợi thế so sánh tĩnh của các DN Việt Nam hiện chủ yếu là từ nguồn nhân công dồi dào với mức lương tương đối thấp. Tuy nhiên, tập trung khai thác quá mức lợi thế chi phí lao động thấp sẽ là một trở ngại với DN trong việc dần phát triển các sản phẩm có GTGT cao hơn. Việc duy trì đội ngũ nhân công rẻ mà thiếu chính sách đào tạo và đãi ngộ hợp lý sẽ cản trở động lực tăng năng suất lao động và khả năng tận dụng kinh nghiệm của người lao động tích lũy được trong quá trình làm việc. Trong khi đó, tăng năng suất lao động dường như là hợp lý nhất trước tình trạng các DN còn thiếu vốn và có trình độ công nghệ thấp.