Du lịch y tế là loại hình du lịch đem lại lợi nhuận, doanh thu cao nhưng lại chưa thực sự được chú ý ở Việt Nam mặc dù Việt Nam có nhiều tiềm năng, lợi thế để phát triển sản phẩm du lịch này.
Tiềm năng phát triển du lịch y tế ở Việt Nam
Theo thống kê của ngành y tế, mỗi năm Việt Nam đón khoảng 300.000 người nước ngoài đến tham khám ngoại trú và 57.000 người điều trị nội trú. Số liệu thống kê của ngành du lịch trước dịch Covid 19, mỗi năm có đến hơn 10 nghìn bệnh nhân nước ngoài sang Việt Nam để làm răng và đem về doanh thu cho ngành khoảng trên 150 triệu USD. Trong đó, du khách đến từ Australia, Mỹ, Newzealand nằm trong tốp 3 du khách quốc tế đến Việt Nam thường xuyên để thực hiện dịch vụ khám, chữa răng, kết hợp du lịch, trải nghiệm. Đó là chưa kể vào mỗi dịp lễ, Tết, hàng chục ngàn Kiều bào từ khắp nơi trên thế giới về thăm quê kết hợp với việc làm răng. Theo số liệu của Trang The Asean Post năm 2018 có 80.000 người nước ngoài đến Việt Nam để tìm kiếm dịch vụ và điều trị về y tế mang lại nguồn thu hơn 1 tỷ đô la. Còn theo số liệu của Bộ Y tế, năm 2018, Việt Nam thu về hơn 1 tỷ đô la từ du lịch y tế tính riêng với bệnh nhân nước ngoài.
Thành phố Hồ Chí Minh chiếm thị phần lớn nhất về du lịch y tế tại Việt Nam với sản phẩm chính được du khách lựa chọn là y học cổ truyền, nha khoa và thẩm mỹ. Vài năm gần đây, để phát triển thị trường khách du lịch này, TP. Hồ Chí Minh đã thực hiện nhiều giải pháp như xây dựng cẩm nang du lịch y tế, tạo app riêng cho dịch vụ khám chữa bệnh, tăng cường truyền thông, quảng bá, phát triển những gói dịch vụ chuyên sâu. Hà Nội được du khách quốc tế chấm điểm cao trong việc thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) với hàng loạt bệnh viện tuyến đầu và hệ thống trang thiết bị được đầu tư hiện đại. Các chuyên gia IVF ước tính mỗi năm Việt Nam có khoảng 30.000 ca IVF và Việt Nam hiện là quốc gia thực hiện IVF nhiều nhất khu vực Đông Nam Á
Tạp chí International Living của Úc đã bình chọn Việt Nam là một trong ba quốc gia hàng đầu Đông Nam Á được khách Úc ưa chuộng vì có dịch vụ nha khoa chất lượng cao với chi phí thấp. Cụ thể, dịch vụ làm cầu cho răng tại Úc có giá khoảng 4.500 đô la Úc, trong khi đó ở Việt Nam chỉ giao động từ 500-800 đô la Úc. Mức chi phí cho dịch vụ làm răng sứ tại Việt Nam rẻ hơn 1/3 nếu so sánh với Mỹ và Úc. Tạp chí Fosbes cho biết chi phí thực hiên một ca IVF tại Việt Nam chỉ bằng 1/3 so với các quốc gia khác tại Đông Nam Á, còn nếu so với chi phí trung bình 20.000 đô la thực hiện IFV tại Mỹ thì mức giá ở Việt Nam chỉ bằng ¼.
Không chỉ cạnh tranh về giá cả, thời gian cũng là một yếu tố khiến cho du lịch y tế tại các nước Đông Nam Á trong đó có Việt Nam chiếm ưu thế. Trong khi tại Mỹ, Úc hay các quốc gia Châu Âu, để thực hiện việc làm răng sứ phải mất từ 2-3 tháng thì tại Thái Lan hay Việt Nam, dịch vụ này sẽ được hoàn thiện chỉ trong 2 tuần.
Mặc dù đã được du khách quốc tế nhìn nhận và lựa chọn nhưng với danh sách dài các bệnh viện lớn cùng đội ngũ bác sĩ có tay nghề cao ngang tầm thế giới như: Bạch Mai, Viện E, Răng hàm mặt Trung Ương, Y học cổ truyển Trung ương, Hữu Nghị, Bưu điện, Xanh-pôn tại Hà Nội. Bệnh viện Chợ Rẫy, viện 115, Đại học Y dược, Từ Dũ tại thành phố Hồ Chí Minh, chưa kể đến nhiều bệnh viện tư nhân có trang thiết bị hiện đại và dịch vụ cao cấp như Hồng Ngọc, Thu Cúc, An Sinh, Hoàn Mỹ, Vạn Hạnh, Việt Pháp…thì thực tế phải nhìn nhận rằng thị trường du lịch y tế tại Việt Nam còn quá khiêm tốn so với tiềm năng.
Định hướng và giải pháp phát triển giai đoạn tới
Có rất nhiều rào cản khiến du lịch y tế tại Việt Nam chưa thể phát triển, trong đó phải kể đến như: chưa có chính sách khuyến khích phát triển, chưa có sự phối kết hợp giữa ngành y tế và ngành du lịch. Các bệnh viện cũng chưa có sự chuẩn bị về nguồn nhân lực phục vụ thị trường khách này, bởi không như khách nội địa, để phục vụ khách quốc tế thì bác sĩ, y tá cũng cần thông thạo ngoại ngữ. Khó khăn lớn nhất chính là việc để thu hút khách các bệnh viện cần phải có chứng nhận chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Tất cả các bệnh viện uy tín được khách quốc tế lựa chọn tại khu vực Đông Nam Á đều có chứng nhận của Ủy ban Quốc tế (Joint Commission International – JCI). Được JCI công nhận đồng nghĩa với việc có đủ điều kiện cung cấp dịch vụ vụ du lịch y tế đạt tiêu chuẩn cả về chuyên môn và trang thiết bị. Thái Lan là quốc gia có số bệnh viện được JCI công nhận nhiều nhất tại Đông Nam Á với 67 bệnh viện, Indonesia 31 bệnh viện, ít nhất là Myanmar chỉ có duy nhất 01 bệnh viện được công nhận. Việt Nam có 4 bệnh viện được JCI công nhận, một con số còn quá khiêm tốn so với số lượng các bệnh viện tại Việt Nam hiện nay
Trước thực tế đó, để du lịch y tế phát triển trở thành sản phẩm du lịch có khả năng mang lại nguồn thu lớn cho du lịch Việt Nam cần triển khai một số giải pháp chính như:
- Đầu tư một số bệnh viện lớn có đầy đủ nguồn lực cả về nhận sự và cơ sở vật chất để đảm bảo có chứng nhận từ Ủy ban Quốc tế nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh với các quốc gia khác trong khu vực.
- Không dàn trải trong việc cung cấp các dịch vụ y tế mà tập trung vào thế mạnh của ngành y tế Việt Nam như: chưa hiếm muộn, vô sinh; khám chữa răng hàm mặt và y học cổ truyền.
- Xây dựng hệ thống hỗ trợ du lịch y tế chuyên nghiệp bao gồm: hệ thống công nghệ thông tin, nhân sự, các đại lý kết nối.
- Chuẩn hóa các cơ sở đáp ứng việc đón bệnh nhân nước ngoài: Quy chế khám chữa bệnh cho người nước ngoài, các hình thưc thanh toán quốc tế, bảo hiểm y tế quốc tế.
- Hợp tác, kết nối chặt chẽ giữa 2 ngành du lịch và y tế trong việc xây dựng chiến lược phát triển và triển khai các kế hoạch, chương trình quảng bá, xúc tiến.
Nguyễn Lan Hương
