Tóm tắt: Thư viện số là yếu tố không thể thiếu của xu hướng xã hội học tập như hiện nay ở thế giới và Việt Nam. Việc “đưa lớp học” lên internet để chia sẻ tri thức và kịp thời cập nhật những điều mới mẻ thông qua phương thức đào tạo E-Learning trở thành xu hướng giáo dục ở các nước tiên tiến như Anh, Mỹ, Nhật… Thư viện số với tài liệu điện tử là giáo trình, sách, báo, tạp chí, âm thanh, hình ảnh tĩnh/động… đã thiết lập và phát huy tốt nguồn tài nguyên tri thức cho công tác dạy – học, đặc biệt rất phù hợp với hoạt động đào tạo các ngành kiến thức tổng hợp và luôn được cập nhật theo yêu cầu thực tiễn như ngành luật. Nghiên cứu để phát triển thư viện số cũng là điều rất cần thiết phù hợp với xu thế phát triển của lĩnh vực thư viện và giáo dục trong thời đại cách mạng công nghiệp (CMCN) lần thứ tư. Bài tham luận này trao đổi vấn đề “Thư viện số – Triển vọng trong đào tạo E-Learning ở Việt Nam” nhằm góp phần vào hệ thống các quan điểm và vai trò hoạt động đào tạo E-Learning ở Việt Nam..
Từ khóa: E-Learning; thư viện số; chia sẻ tài liệu số.
Sự phát triển của công nghệ thông tin và các ứng dụng trên nền tảng công nghệ số có xu hướng tin học hóa các hoạt động trong đời sống xã hội, hoạt động học tập cũng vì thế mà thay đổi, người dạy và người học có thẻ không phải gặp mặt trực tiếp (“face to face”) như phương thức truyền thống. Khái niệm học tập/giáo dục/đào tạo trực tuyến thường được gọi là E-Learning, lớp học trực tuyến, thư viện số, giáo trình điện tử… không còn là điều mới mẻ đối với việc dạy và học hiện nay ở Việt Nam. Trong xu thế chuyển đổi số hoạt động giảng dạy nói chung và E-Learning nói riêng, tài liệu điện tử là yếu tố không thể thiếu, phù hợp với yêu cầu của phương thức dạy và nhu cầu của người học trong thời đại mới. Mạng internet không bị giới hạn về phạm vi địa lý và nguồn thông tin, dữ liệu trên internet đã tạo nên kho tàng tri thức gần như không bị giới hạn. Tuy nhiên, mỗi ngành/chuyên ngành học cần một nhóm tài liệu chính thống nhằm trang bị cho người học kiến thức cơ bản để tiếp tục khám phá, nghiên cứu trong và sau khi kết thúc khóa học. Tuy nhiên, hiện nay thư viện số (nếu có) của các cơ sở đào tạo nói chung và hệ thống E-Learning nói riêng vẫn mang tính nội bộ, thậm chí cá nhân giảng viên mà chưa có sự chia sẻ, liên kết một cách có hệ thống theo lĩnh vực chuyên môn. Bài tham luận này, tôi xin được trao đổi nội dung chia sẻ thư viện số trong đào tạo E-Learning ở Việt Nam và tập trung vào một số nội dung chính: Thư viện số các yêu cầu về ứng dụng công nghệ, vấn đề chia sẻ dữ liệu thư viện số trong đào tạo E-Learning ở Việt Nam, từ đó tôi đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc chia sẻ tri thức qua hệ thống thư viện số có kết nối liên thông qua mạng internet.
1. Yêu cầu phát triển Thư viện số của Nhà nước
Theo quy định Luật Thư viện (trình Quốc hội), khái niệm thư viện số đã được định nghĩa như sau: là thư viện hoặc bộ phận của thư viện có tài nguyên thông tin được xử lý, lưu giữ dưới dạng số mà người sử dụng thư viện truy cập, khai thác thông qua thiết bị điện tử và không gian mạng [1].
Tính đến năm 2020, cả nước có 24.102 thư viện công cộng, phòng đọc sách, tủ sách, thư viện tư nhân có phục vụ cộng đồng và thư viện cộng đồng, cụ thể: 01 thư viện Quốc gia, 63 thư viện cấp tỉnh, 667 thư viện cấp huyện, 3.290 thư viện cấp xã, 19.901 phòng đọc sách, thư viện cộng đồng, 180 thư viện tư nhân có phục vụ cộng đồng. Hệ thống thư viện đã từng bước đổi mới, đa dạng hóa các phương thức phục vụ, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, cải cách thủ tục cấp thẻ nhằm thu hút bạn đọc đến sử dụng thư viện [2].
Với lĩnh vực giáo dục, thư viện nói chung, thư viện các cơ sở trường đại học là thiết chế không thể thiếu. Ngày nay với xu thế phát triển của CMCN lần thứ tư, tài liệu thư viện từng bước được số hóa, thư viện truyền thống có xu hướng chuyển dần từ mô hình thư viện truyền thống sang thư viện điện tử (thư viện số). Tài nguyên số trong thư viện trở thành nguồn tài liệu quý để cơ sở đào tạo, giáo viên sử dụng trong công tác biên soạn giáo trình phục vụ đào tạo E-Learning.
Năm 2019, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch đến năm 2021, định hướng đến năm 2030 (Quyết định số 429/QĐ-TTg ngày 18/04/2019). Trong đó, đơn vị sự nghiệp lĩnh vực thư viện được xác lập như một loại hình thiết chế độc lập, thống nhất từ trung ương đến địa phương, không sáp nhập với đơn vị sự nghiệp khác trong lĩnh vực văn hóa. Đây là cơ sở để các loại hình thư viện trong đó có thư viện chuyên ngành ở các trường đại học, thư viện các cơ sở giáo dục nghề nghiệp phát triển. Vốn tài liệu ở các thư viện này là rất quý báu để người học, người dạy tiếp cận được kho tàng tri thức của nhân loại, áp dụng vào đời sống và hoạt động kinh tế, xã hội.
Thực hiện Quyết định số 206/QĐ-TTg ngày 11/02/2021 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số ngành thư viện đến năm 2025, định hướng đến năm 2030″. Xây dựng thư viện số là một trong những ưu tiên hàng đầu với các nhiệm vụ như: Ứng dụng công nghệ và tuân thủ các tiêu chuẩn quốc gia/quốc tế để xây dựng và phát triển công nghiệp nội dung cho thư viện số; tích hợp Cơ sở dữ liệu tài liệu số của các thư viện trong cả nước, kết nối các đơn vị và cá nhân khác có tiềm lực (các Nhà xuất bản, cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước có cung cấp sản phẩm số…); xây dựng cơ sở dữ liệu toàn văn hoặc chỉ dẫn tới cơ sở dữ liệu toàn văn các xuất bản phẩm ở Việt Nam, các bài báo, tạp chí khoa học, tài liệu tham khảo, tài liệu quý hiếm, tài liệu có hàm lượng tri thức cao… Liên kết nguồn dữ liệu số, chia sẻ thông tin dùng chung của các thư viện, cho phép mọi người có thể truy nhập qua internet.
2. Triển vọng của hoạt động chia sẻ dữ liệu số trong đào tạo E-Learning
2.1. Nhu cầu học tập
Theo số liệu của Bộ Thông tin và Truyền thông [3], tỷ lệ dân số trưởng thành có điện thoại thông minh là 70,91%; tỷ lệ hộ gia đình có điện thoại thông minh là 85,08%; tỷ lệ hộ gia đình có cáp quang băng rộng là 68,8%. Về kinh tế số, Ước tính tổng doanh thu kinh tế số Quý I/2022 khoảng 53 tỷ USD, đóng góp khoảng 10,2% GDP, trong đó kinh tế số nền tảng có tốc độ tăng trưởng 28%, đạt doanh thu 8 tỷ USD, còn lại là kinh tế số ICT và kinh tế số ngành, với tốc độ tăng trưởng doanh thu trung bình khoảng 15%. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số doanh nghiệp công nghệ số thành lập mới tính đến hết tháng 02/2022, đạt 65.329 doanh nghiệp, tăng 487 doanh nghiệp so với năm 2021. Có thể thấy rằng, tỉ lệ người sử dụng internet ở Việt Nam là rất cao, đây là một “thị trường” rất rộng lớn để phát triển E-Learning.
Theo thống kê của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, năm 2021 có 5.138 cơ sở giáo dục nghề nghiệp; số học viên, học sinh, sinh viên tuyển mới thuộc hệ thống giáo dục nghề nghiệp là 1.291.526 người; Số học viên, học sinh, sinh viên tốt nghiệp thuộc hệ thống giáo dục nghề nghiệp là 1.051.743 người [4].
Theo số liệu thống kê giáo dục đại học năm học 2019 – 2020 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, với 237 trường đại học (công lập và ngoài công lập) đã tuyển sinh được 447,483 sinh viên thì có 13,175 sinh viên được đào tạo từ xa (trong đó trường công lập có 12,986 sinh viên). Quy mô sinh viên bậc đại học là 1,672,881, trong đó 39,600 sinh viên được đào tạo từ xa (trường công lập có 38,609 sinh viên) [5]. Hiện nay ngành luật khá phổ biến trong cả nước nói chung và Việt Nam nói riêng, vì tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp ra trường có việc làm rất cao. Theo thống kê năm 2020 cho thấy, đến nay có gần 50 trường đào tạo ngành luật trên cả nước.
Có thể nói rằng, nguồn nhân lực đã và đang được đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân và nguồn nhân lực qua đào tạo đã tham gia vào thị trường lao động là rất lớn. Đây là một trong những nguồn nhân lực lao động mà hình thức đào tạo E-Learning hướng đến. Hiện nay, hệ thống pháp luật của Việt Nam đang hướng đến nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mọi người dân cùng với nhà nước từng bước hoàn thiện xã hội lấy pháp luật dân chủ, tiến bộ làm mục tiêu chính. Điều này phản ánh ý chí và nguyện vọng của nhân dân, pháp luật phải phù họp với quyền tự nhiên của con người. Tất cả các yếu tố trên là mục tiêu cũng và động lực các cơ sở đào tạo các ngành luật nghiên cứu, phát triển các phương thức đào tạo mới nhằm bổ sung, hoàn thiện nguồn nhân lực tham gia vào sự phát triển kinh tế, xã hội ở Việt Nam.
2.2. Xu hướng công nghệ trong đào tạo E-Learning
Sự phát triển của công nghệ thông tin và các công nghệ mạng trên nền tảng internet đã kiến tạo một không gian học tập thời hiện đại, không còn phụ thuộc vào không gian (phạm vi địa lý), thời gian. Chưa bao giờ việc học tập lại trở nên dễ dàng như ngày nay, hoạt động này còn dễ dàng hơn nữa khi “thầy giáo ảo”, “lớp học ảo”, thậm chí “trường học ảo” ngày càng hiện hữu, học sinh có thể tự do lựa chọn giáo viên (ảo), và chủ động xếp lịch để “vào lớp học” một cách tùy ý. Khi sự phát triển của khoa học giúp nền kinh tế phát triển theo hướng công nghiệp và hội nhập quốc tế thì xu thế sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao, kịp thời cập nhật tri thức mới là yêu cầu của xã hội. Nhu cầu học tập của lực lượng lao động đã được đặt ra, nhu cầu này cũng rất phong phú và đa dạng trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin. Để đáp ứng nhu cầu học tập đó, hình đào tạo E-Learning đã hình thành và từng bước phát triển như một xu hướng ứng dụng công nghệ tất yếu trong hoạt động đào tạo nguồn nhân lực. Công nghệ trong đào tạo E-Learning cũng vì thế mà liên tục được thay đổi về quy mô và chất lượng để đáp ứng nhu cầu học tập trực tuyến của xã hội. Một số công nghệ chủ yếu trong xu hướng phát triển E-Learning có thể kể đến như sau:
Số hóa chất lượng cao: Khi nguồn tư liệu để giảng dạy không còn bị gói gọn qua những trang sách điện tử, việc sử dụng các thiết bị số giản đơn để chuyển tải nội dung số (máy chiếu, video phân giải thấp, âm thanh chất lượng thấp,…) cũng dần được thay thế bởi các hình thức thông tin dữ liệu chất lượng cao như hình ảnh 3D, 2K, 4K, 8K… âm thanh lập thể 5.1, 7.1… Các thiết bị xử lý và hiển thị chất lượng cao (tivi, màn hình máy tính, điện thoại thông minh…), đường truyền internet tốc độ cao và nhu cầu sử dụng các thiết bị cá nhân hiện đại không ngừng tăng cao, yêu cầu số hóa tài liệu để cung cấp cho việc học tập cũng vì thế mà phải thay đổi theo hướng nâng cao chất lượng dữ liệu cả về nội dung và hình thức hiển thị dữ liệu.
Việc lựa chọn hình thức số hóa tạo lập, lưu trữ dữ liệu một cách phù hợp tùy thuộc hình thức tư liệu gốc và mục đích khi sử dụng chúng trong đào tạo E-Learning. Ví dụ, dạng giấy số lượng lớn có thể sử dụng máy quét chuyên dụng, để trực quan có thể phải sử dụng kết hợp quét ảnh phân giải cao, quét 3D,…
Internet kết nối vạn vật – IoT (Internet of thing): Để chỉ khả năng kết nối các thiết bị số trên nền tảng công nghệ Internet, các thiết bị này có thể tự liên hệ với nhau, thu thập dữ liệu và giao tiếp với các thiết bị xung quanh theo các chuẩn không dây. Ngày nay, IoT đã phát triển mạnh với số lượng lớn các nút mạng như: máy tính, điện thoại thông minh, tivi thông minh, các thiết bị thông minh và chuyên dụng khác,… Tốc độ xử lý và chất lượng âm thanh, hiển thị của thiết bị, hạ tầng băng thông rộng, phương thức truyền dữ liệu với tốc độ siêu cao tần (qua vệ tinh), 4G, 5G qua các trạm BTS mặt đất đã tạo điều kiện rất thuận lợi khi mọi người tham gia lớp học trực tuyến.
Công nghệ dữ liệu lớn (big data): Trong đào tạo E-Learning, khi thiết lập được kho dữ liệu (trên cơ sở liên kết, chia sẻ dữ liệu), việc xử lý trên dữ liệu lớn sẽ được hỗ trợ bởi phần mềm. Hiện nay, công nghệ phần mềm phát triển mạnh, nhiều thuật toán, giải pháp tối ưu trong xử lý dữ liệu lớn như trí tuệ nhân tạo (AI – Artificial Intelligence), máy học (machine learning), xử lý chuỗi khối (blockchain),… để phân tích dữ liệu liên quan đến vốn tài liệu thư viện như miêu tả dữ liệu (descriptive), chuẩn đoán dữ liệu (diagnostic), tiên đoán (predictive), quy luật dữ liệu (prescriptive)… Nhờ vậy mà các tiện ích dịch vụ trên cơ sở khai thác dữ liệu lớn sẽ đạt hiệu quả gần như không có giới hạn, tạo điều kiện thuận lợi trong cung cấp giáo trình để người học, người dạy và cơ sở đào tạo nâng cao chất lượng giáo dục theo xu hướng hiện đại.
Công nghệ thực tế ảo – VR (virtual reality) có thể giúp con người thông qua kính thực tế ảo (3 chiều) để nhìn thấy không gian ảo về các đối tượng được mô phỏng một cách chân thực nhất. Các thiết bị phần cứng có chức năng tiếp nhận cử chỉ, trạng thái, cảm giác kích thích, hoạt động của con người biến thành các tín hiệu điện tử để tương tác với hệ thống phần mềm trên thời gian thực, có nghĩa là máy tính có khả năng nhận biết được tín hiệu vào của người sử dụng và thay đổi tương ứng ngay lập tức trên thế giới ảo. Nhờ các thiết bị phần cứng và phần mềm mà việc “ảo hóa học liệu” trên “không gian ảo” có tác động toàn diện đến mọi cảm giác của con người như ở trên không gian thực. Trong nhiều trường hợp, chất lượng cảm nhận của con người trên không gian ảo thậm chí còn tốt hơn khi con người ở không gian thực vì thông thường các công nghệ hỗ trợ sẽ điều chỉnh (theo hướng tốt lên) để phù hợp nhất với đặc tính các giác quan, tâm lý của con người. Công nghệ thực tế ảo sẽ là một trong những xu hướng ứng dụng công nghệ rất quan trọng trong tiến trình hình thành lớp học ảo, giáo viên ảo và cũng là một xu hướng tất yếu của đào tạo E-Learning trong tương lai.
Có thể nói rằng, các công nghệ liên quan phục vụ đào tạo E-Learning trong xu thế phát triển mạnh của CMCN lần thứ tư đòi hỏi một nguồn kinh phí đầu tư rất lớn mà mỗi cơ sở đào tạo gần như rất khó để theo đuổi mục tiêu giảng dạy song hành với đầu tư công nghệ. Đây là một bài toán khó cần được các nhà quản lý về giáo dục quan tâm, nghiên cứu để lựa chọn giải pháp thỏa đáng. Trong đó, chú trọng sử dụng nguồn lực nhà nước cho việc đầu tư các công nghệ nền tảng, trên cơ sở đó, tùy thuộc tính chất đặc thù của mỗi chuyên ngành, yêu cầu về mức độ để các cơ sở đào tạo có thể phát triển hệ thống của riêng mình như là thương hiệu cơ sở đào tạo của mình.
2.3. Vai trò của tài liệu giảng dạy và hình thức dữ liệu
Trong mô hình đào tạo E-Learning và thư viện số, hệ thống quản lý nội dung học tập – LCMS (Learning Content Management System) giữ vai trò rất quan trọng. Tài liệu điện tử LSMS có thể quản lý gồm giáo trình, sách, báo, tạp chí, âm thanh, hình ảnh tĩnh/động… Thông qua tài liệu giảng dạy, người học có thể cảm nhận về tri thức và phương pháp giáo dục mà cơ sở đào tạo đó sẽ hướng đến.
Hình thức dữ liệu có thể bao gồm kiểu dữ liệu (text, âm thanh, hình ảnh, file dữ liệu…) và chất lượng thể hiện dữ liệu đó đến người sử dụng như: người dạy, người học, người nghiên cứu tham khảo trước khi quyết định học… Hình thức dữ liệu về môn học thể hiện thông điệp về môn học đó, đây là một trong những yếu tố quan trọng bước đầu để thu hút người học. Xu hướng hiện nay, hình thức dữ liệu này phải kết hợp với công nghệ tạo các cảm xúc về thị giác, thính giác… nhằm cuốn hút người học. Có thể xem hình thức dữ liệu như một thông điệp truyền thông/quảng cáo mà người học hay người có ý định theo học như là những khách hàng tiềm năng.
2.4. Liên kết chia sẻ dữ liệu
Trong xu thế phát triển các ứng dụng công nghệ trên nền tảng dữ liệu lớn về tri thức, dữ liệu phục vụ đào tạo E-Learning cũng cần theo một xu hướng mới. Hiện tại, có thể loại trừ đào tạo chuyên môn rất đặc thù liên quan trực tiếp đến sử dụng trang thiết bị để thí nghiệm chuyên sâu (ví dụ bác sỹ, dược sỹ, kỹ sư,…) thì việc đào tạo cấp chứng chỉ đến cấp bằng ở bậc đại học các chuyên ngành khoa học xã hội gần như yêu cầu kiến thức phải tổng hợp đa ngành (theo một tỉ lệ hợp lý nào đó của chứng chỉ/bằng cấp), trong đó công nghệ và tiếng anh là nền tảng không thể thiếu. Tri thức là vô tận và nhu cầu được học tập, khám phá của mỗi người cũng vô tận. Tuy nhiên, khám phá tri thức cần trên nền tảng dữ liệu khoa học và nguồn tài liệu chính thống. Điều này đặt ra vấn đề phải liên kết và chia sẻ dữ liệu. Mỗi kho dữ liệu là một thư viện số chứa một kho tàng tri thức, sự liên kết, chia sẻ tạo nên một thư viện số đồ sộ, đáp ứng nhu cầu học tập của người học ngày càng trở nên phong phú và đa dạng như hiện nay.
Việc liên kết và chia sẻ dữ liệu các thư viện số với nhau cần phải đạt tiêu chuẩn về giao thức và dữ liệu. Mỗi hệ thống E-Learning của một cơ sở đào tạo có thể được xem là một nút mạng, các nút này được liên kết với nhau qua môi trường internet để hình thành mạng lưới các hệ thống E-Learning. Với hệ thống này, hiện nay có hai loại mô hình xử lý dữ liệu đó là xử lý tập trung và xử lý phân tán. Mỗi mô hình đều có ưu nhược điểm và lợi thế riêng. Tuy nhiên, để tận dụng tài nguyên và đề cao tính làm việc độc lập của các nút mạng thì nên lựa chọn giải pháp xử lý phân tán. Các cơ sở đào tạo E-Learning có thể vẫn sử dụng các hệ thống độc lập của nước ngoài (ví dụ như iSpring Presenter, Adobe Presenter, Articulate 360, Lecture Maker, V-iSpring Suit….), trong nước (ví dụ như Topica, Violet,…) nhưng phải có một modul sử dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn chung về công nghệ phần mềm thì chúng mới có thể “giao tiếp” được với nhau. Khi có sự liên thông về giao thức giữa các hệ thống E-Learning với nhau thì giữa chúng đã tạo lập được một cơ chế trao đổi dữ liệu trong suốt, không bị rào cản.
Như vậy có thể nói rằng, sự phát triển của công nghệ thông tin kéo theo yêu cầu về liên kết, chia sẻ tài liệu điện tử và nhu cầu được tiếp cận tri thức trên không gian mạng của nhân dân là xu thế tất yếu. Các hệ thống E-Learning của mỗi cơ sở đào tạo cố gắng để tạo nên sự đặc thù như là một sản phẩm, dịch vụ mang thương hiệu của mình. Tuy nhiên, đây là một cách tiếp cận mang tính chất tạm thời trong thế giới phẳng như hiện nay. E-Learning là một xu hướng giáo dục của thời đại, tri thức trên không gian mạng là vô tận đối với người học. Một cơ sở đào tạo E-Learning cần nhận thức được việc liên kết vào hệ thống dữ liệu dùng chung cũng như chia sẻ dữ liệu đào tạo của mình là một phương thức để phát triển hiệu quả hình thức đào tạo này.
Kết luận
Hình thức đào tạo E-Learning đã và đang khẳng định là một phương thức giáo dục có hiệu quả trong kỷ nguyên CMCN lần thứ tư. Khi nhu cầu cá nhân hóa để người dạy – người học chủ động với chương trình đào tạo, hình thức thể hiện nội dung số, thêm vào đó là nguồn tài liệu phong phú, kiến thức thực tế được cập nhật nhanh chóng qua không gian mạng thì E-Learning đã trở thành xu hướng mới của ngành sư phạm. Kết nối chia sẻ dữ liệu nhằm mở rộng không gian học thuật, kiến thức và tri thức để người học có thể chuẩn hóa, hoàn thiện năng lực chuyên môn, nghiệp vụ theo yêu cầu của thực tiễn. Việc kết nối, chia sẻ tài nguyên bài giảng dạng multi-media chất lượng cao, nội dung được chuẩn hóa, phù hợp với chuyên ngành đào tạo từ các cơ quan quản lý chuyên môn, cơ sở đào tạo (của Bộ Tư pháp) là nguồn dữ liệu chính thống để các hệ thống E-Learning thừa kế và phát huy hiệu quả giáo dục trong các cơ sở đào tạo ở Việt Nam. Tuy nhiên, để việc cấp bằng/chứng chỉ bằng hình thức đào tạo E-Learning phù hợp với tình hình thực tiễn hệ thống giáo dục quốc dân ở Việt Nam, cơ quan quản lý nhà nước như Bộ Giáo dục và Đào tạo, các bộ/ngành chủ quản (cơ quan quản lý chuyên ngành) của cơ sở đào tạo cần tạo lập đủ cơ chế, chính sách thậm chí phải luật hóa. Như vậy mới có thể tạo điều kiện cho hình thức đào tạo này được tồn tại và phát triển một cách đồng bộ như một xu hướng phát triển của phương thức sư phạm ở Việt Nam thời kỳ CMCN lần thứ tư.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Luật Thư viện – Luật số: 46/2019/QH14 ngày 21/11/2019 của Quốc hội.
[2] Số liệu của Vụ Thư viện – Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
[3] Báo cáo Tình hình triển khai chuyển đổi số Quý I năm 2022.
[4] http://thongke.molisa.gov.vn/.
[5] Số liệu thống kê giáo dục đại học năm học 2019 – 2020, truy cập 9/2022
Dương Viết Huy
