Dòng tranh dân gian Đông Hồ là một trong những dòng tranh gắn bó với xã hội nông nghiệp Việt cổ truyền, dòng tranh thể hiện sinh động cuộc sống lao động của người nông dân bình dị, chất phác, phong tục, tập quán, sinh hoạt của người dân Việt. Hàng trăm năm qua, tranh dân gian Đông Hồ được xem là dòng tranh Tết bởi nó thường được bán vào dịp Tết ở các chợ quê đặc biệt là chợ vùng kinh Bắc. Năm 2013, nghề làm tranh dân gian Đông Hồ được Nhà nước công nhận là Di vản văn hóa phi vật thể Quốc gia.

Hiện nay, tranh dân gian Đông Hồ đang đứng trước nguy cơ mai một do tác động của nền kinh tế thị trường, sự thay đổi nhu cầu thẩm mỹ của người dân, “đầu ra” cho tranh gặp nhiều khó khăn. Dân làng tranh giờ đây chủ yếu làm hàng mã. Bên cạnh đó, theo đánh giá của một số họa sĩ, tranh Đông Hồ không còn mang tính hồn nhiên, chất phác, “thuần Việt” như xưa, mà đang dần bị thương mại hoá, không có màu sắc thắm như tranh cổ, do người ta trộn màu trắng vào điệp để tiết kiệm lượng điệp, khiến giấy mất độ óng ánh. Đồng thời, màu sử dụng cũng chuyển sang dùng loại màu công nghiệp cho rẻ và tiện, các bản khắc mới thường thô và sơ sài, không được tinh tế như bản cổ. Đặc biệt, một số bản khắc đã bị đục bỏ phần chữ Hán, hoặc chữ Nôm, vốn là một phần cấu tạo nên bố cục của tranh, khiến tranh bị mất đi tính hoàn chỉnh [1] [1]

Vì vậy việc nghiên cứu, đề xuất giải pháp, chính sách đặc biệt để bào tồn các giá trị văn hóa nghề làm tranh dân gian Đồng Hồ cũng như có cơ sở khoa học để lập Hồ sơ đề nghị UNESCO ghi danh vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp thì việc nghiên cứu, ứng dụng công nghệ trong bối cảnh vận động của xã hội, của làng nghệ trong xu hướng phát triển của khoa học, công nghệ đồng thời bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dòng tranh dân gian Đông Hồ trong đời sống đương đại là rất cấp thiết.

Trong giới hạn tham luận của hội thảo khoa học, tôi tập trung trao đổi hai nội dung chính: Thứ nhất, quan điểm về ứng dụng công nghệ trong sản xuất tranh và sản xuất bằng hình thức truyền thống; thứ hai, ứng dụng các công nghệ là thành tựu của CMCN lần thứ tư trong bảo quản, phát huy giá trị văn hóa, nghệ thuật của dòng tranh này trên môi trường số.

  1. Sản xuất tranh – Ứng dụng công nghệ hay giữ gìn truyền thống

1.1.      Ra bản mẫu

Chế tác bản mẫu là công việc đầu tiên trong việc thể hiện hồn cốt bức tranh, có bao nhiêu màu thì có bấy nhiêu bản mẫu. Thông thường, đối với nghệ nhân sáng tác để sản xuất bản mẫu, họ có những am hiểu về văn hóa, năng khiếu, kinh nghiệm và khả năng truyền tải giá trị này lên bức tranh như một thông điệp của tác giả đến người xem tranh. Từ kinh nghiệm được bồi đắp qua quá trình sáng tác và hình thành sản phẩm, họ có thể sẽ phải cập nhật các câu chuyện mới, tích chuyện mới trên nền tảng phát huy các giá trị dân gian, nho học và văn hóa đương đại. Theo dòng chảy của bản mẫu, bức tranh đó, chữ viết trên tranh là một phần không thể thiếu và nó cũng được thay đổi từ Hán, chữ Nôm và sau này là chữ quốc ngữ. Đây là một trong những biểu hiện về sự vận dòng tranh này cả về nội dung cũng như hình thức thể hiện mà bản mẫu đóng vai trò quyết định.

Trong xu thế phát triển của công nghệ, đặc biệt là các ứng dụng điều khiển bởi máy tính – CNC (Computer Numerical Control), việc khắc để tạo khuôn trên các chất liệu (gỗ, đá, kim loại) không còn là điều xa lạ. Tuy nhiên khi các nghệ nhân sáng tác phần lớn rất khó thể hiện một cách có hiệu quả các ý tưởng, sự sáng tạo của mình trên máy tính thì dòng tranh Đông Hồ có thể được xem là dòng tranh “handmade” 100% ngay cả khi phải đương đầu, cạnh tranh với nền công nghiệp sản xuất tranh đương đại với sự hỗ trợ của công nghệ in bởi máy lazer, mực màu nano trên các chất liệu gần như không bị giới hạn.

Vậy, lối đi nào để ra bản mẫu cho các sản phẩm dòng tranh Đông Hồ phù hợp với xã hội đương đại? Theo tôi, công đoạn này cần phải giữ được giá trị truyền thống thuần túy thay vì ứng dụng công nghệ (như dùng máy CNC) để tạo khuôn. Tuy nhiên, việc ứng dụng công nghệ có thể được áp dụng khi các nghệ nhân sáng tạo khuôn. Thay vì phải đục đẽo tạo khuôn ngay trên gỗ, in thử để kiểm nghiệm về hình ảnh, đường nét, màu sắc thì công đoạn này có thể được thực hiện bằng máy tính. Cụ thể là có thể thiết kế khuôn in trên máy tính và “in thử” (dưới dạng xuất thành ảnh) như là hoạt động in ấn trên thực tế. Khuôn in (điện tử) có thể được điều chỉnh dễ dàng để có đường nét, màu sắc… tùy theo sáng tạo của người thiết kế. Thực tế khi khuôn được thiết kế và khắc bằng máy thì đường nét sẽ “mượt”, độ lồi lõm chi tiết hơn nhưng lúc đó tính chất công nghiệp đã ở ngay từ bước này, bức tranh sản phẩm gần như là một bức ảnh in sẽ phá hỏng giá trị truyền thống hàng trăm năm của dòng tranh Đông Hồ.

1.2.      Công nghệ nano về mực in và màu in dòng tranh Đông Hồ

a)        Công nghệ nano về mực in

Từ những năm 60 của thế kỷ trước vật liệu nano (nanomaterial) đã được đề cập nhưng mãi đến những năm 80, khi khả năng công nghệ của thế giới đã đạt đến trình độ nhất định, công nghệ nano (nanotechnology) mới được nghiên cứu ở phòng thí nghiệm và dần được ứng dụng trên một số lĩnh vực như y học, điện tử… Như vậy, bắt nguồn từ khoa học nano, công nghệ nano ra đời với ý nghĩa là các công nghệ liên quan đến việc thiết kế, phân tích, chế tạo và ứng dụng các cấu trúc bằng cách điều khiển kích thước trên quy mô nanomet, ký hiệu là nm (1m = 1 tỉ nm hay 1 nm = 10−9 m).

Việc can thiệp đến các vật liệu với quy mô nm, ở quy mô này tính chất vật liệu sẽ rất khác với các quy mô có kích thước lớn hơn và đặc biệt khác với các vật liệu có thể trông thấy bằng mắt thường. Vật liệu nano có thể là dạng rắn, dạng lỏng, dạng khí và có thể chia thành 3 loại tùy thuộc hình dáng và số chiều tự do cho điện tử: không chiều nếu không có chiều tự do cho điện tử (3 chiều nano) ví dụ hạt nano, một chiều nếu có 2 chiều nano và một chiều tự do cho điện tử như dây nano, 2 chiều nếu chỉ có một chiều nano và 2 chiều tự do cho điện tử như màng nano. Với các tính chất như trên, mực in nano sẽ có chất lượng bám dính rất tốt trên chất liệu in tương ứng, độ bền (giữ) màu cao, độ phối màu và có thể in đa lớp, có thể in 3D…

b)       Mực và màu in, giấy in dòng tranh Đông Hồ

Trái ngược hoàn toàn với mực in dựa trên công nghệ mới (phần lớn là pha trộn bởi hóa chất ngay cả mực in sử dụng công nghệ nano), mực in dòng tranh Đông Hồ là màu được làm nên từ chất liệu cây cỏ có trong tự nhiên: màu đen người ta phải đốt lá tre rồi lấy than của nó; màu xanh lấy từ vỏ và lá tràm, màu vàng lấy từ hoa hòe, màu đỏ thắm lấy từ thân, rễ cây vang, màu sơn lấy từ sỏi núi, màu trắng là bột vỏ sò điệp… Những chất màu thô này được trộn với nhau và hoà với một lượng bột nếp (thành mực in) trước khi in tranh nhờ vậy giấy tranh (đã in) cứng hơn sau khi phơi khô. Giấy được làm một cách thủ công từ vỏ cây dó và được phết một lớp điệp (lớp bột tán từ vỏ sò biển) do vậy, giấy có màu óng bạc [2]. Có lẽ vì thế mà từ năm 1948, nhà thơ Hoàng Cầm đã viết vần thơ đầy cảm xúc về giá trị truyền thống của bức tranh, niềm tự hào dân tộc: “Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong. Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp…” (trích Bên kia sông Đuống).

Hiện nay, với sự phát triển của công nghệ và hóa chất, màu công nghiệp được sử dụng trong các loại mực in để thể hiện các loại màu sắc trên vật liệu in tương ứng (như trên giấy thông thường, giấy ảnh, trên nền nhựa cứng, nhựa mềm, gỗ tự nhiên, gỗ công nghiệp, trên thủy tinh, trên kim loại…).

Và trong sự phát triển đó, mực và màu in, giấy in đối với tranh Đông Hồ cần lựa chọn giải pháp nào cho dòng tranh truyền thống của mình?

Theo tôi, xuất phát từ việc tiếp tục giữ gìn phương pháp làm giấy truyền thống tức là giấy dó có lớp phủ bột điệp, mực và màu in vẫn sử dụng vật liệu tự nhiên từ cây cỏ như tiền nhân đã truyền dạy. Việc sử dụng màu công nghiệp trên giấy truyền thống hay sử dụng màu và mực truyền thống trên nền giấy hiện đại là không phù hợp. Hơn nữa, màu công nghiệp, mực in nano có thể gây độc hại đến sức khỏe của các nghệ nhân, lực lượng lao động sản xuất tranh và gây ảnh hưởng đến môi trường sinh hoạt của làng nghề và cộng đồng.

Như vậy, có thể nói rằng: Để giữ gìn giá trị truyền thống của dòng tranh Đông Hồ trong đời sống đương đại thì điều tiên quyết là tiếp tục giữ gìn 2 công đoạn rất quan trọng trong quy trình sản xuất dòng tranh này đó là: Ra bản mẫu tạo khuôn in, sử dụng màu và mực in từ chất liệu thiên nhiên.

  1. Ứng dụng công nghệ trong quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị dòng tranh Đông Hồ trên môi trường số

Trong đời sống đương đại, để phát huy một giá trị truyền thống thì trước tiên cần nhìn nhận và phân tích kỹ giá trị đó sẽ thế nào trong bối cảnh “giằng xé” giữa truyền thống và hiện đại. Tôi cho rằng, đối với dòng tranh Đông Hồ, việc sản xuất tranh phải hoàn toàn bằng phương pháp truyền thống – đó là giữ gìn giá trị truyền thống của dân tộc. Việc phát huy giá trị này trong đời sống đương đại thì cần phải ứng dụng thành tựu của công nghệ. Đây là một sự kết hợp hài hòa phù hợp với thực tiễn, không duy ý chí với giá trị truyền thống và cũng không bàng quan với nhu cầu, yêu cầu của xã hội hiện đại.

Trong xu thế phát triển của công nghệ là thành tựu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và các ứng dụng của nó, giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc nói chung, dòng tranh Đông Hồ nói riêng có tác động tương hỗ và biện chứng với nhau. Ứng dụng công nghệ để phát huy giá trị truyền thống là một giải pháp lựa chọn. Chúng ta cần bảo tồn hoàn toàn việc làm tranh truyền thống, chỉ ứng dụng công nghệ (như số hóa, ảo hóa, trí tuệ nhân tạo trong quảng bá,…) để phát huy giá trị truyền thống phục vụ mục đích du lịch, văn hóa,…

2.1.      Số hóa tranh gốc

Để bảo tồn, truyền dạy và phát huy giá trị dòng tranh Đông Hồ thì cấp thiết phải ứng dụng các thành tựu về công nghệ của thể giới. Số hóa là một hoạt động tiên quyết cho việc ứng dụng công nghệ để lưu trữ, cung cấp thông tin chính thống phát huy giá trị văn hóa truyền thống trên không gian mạng.

Tại Nghị quyết của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư [3] , Bộ Chính trị chỉ đạo phát triển các ngành và công nghệ ưu tiên trong đó có du lịch số và công nghiệp văn hoá số. Để từng bước triển khai thực hiện chủ trương này, việc số hóa các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể là một trong những công việc cần được ưu tiên.

Đối với giá trị truyền thống trong hoạt động sản xuất dòng tranh Đông Hồ, việc số hóa có thể được thực hiện ở tất cả các công đoạn cho đến khi hình thành được bức tranh. Ví dụ có thể số hóa các khuôn in truyền thống để tạo thành khuôn in điện tử dưới dạng 3D lưu trên máy tính, từ khuôn in điện tử này có thể đổ màu cho từng đường nét, từng vùng để tạo nên bức ảnh tương ứng. Quá trình sản xuất khuôn in, làm màu và mực in, làm giấy có thể được số hóa để tạo lập hình ảnh/video 3D, mô phỏng 3D … Khi bức tranh được hình thành, chúng có thể được số hóa dưới dạng ảnh 2D chất lượng cao, ảnh 3D. Quá trình số hóa, mô phỏng cần được giữ nguyên chữ viết trên tranh (đặc biệt là những bức tranh cổ xưa có chữ Hán, chữ Nôm) và có thể chú thích thêm bằng chữ quốc ngữ, tiếng nước ngoài để tạo nên nguồn thông tin đầy đủ về giá trị truyền thống, nghệ thuật khi cung cấp trên không gian mạng, quảng bá các giá trị văn hóa này đến bạn bè, du khách ở trong và ngoài nước.

2.2.      Lập bảo tàng ảo về dòng tranh Đông Hồ

Công nghệ thực tế ảo – VR (virtual reality) có thể giúp con người thông qua kính thực tế ảo (3 chiều) để nhìn thấy không gian ảo về các đối tượng được mô phỏng một cách chân thực nhất. Cũng giống như nhiều hệ thống thông tin khác, một hệ thống ứng dụng công nghệ thực tế ảo gồm 2 phần chính:

Phần cứng gồm thiết bị máy tính, thiết bị đầu vào, đầu ra, đường truyền dữ liệu. Ngoài máy tính cấu hình mạnh, các thiết bị phần cứng có chức năng tiếp nhận cử chỉ, trạng thái, cảm giác kích thích, hoạt động của con người để biến thành các tín hiệu điện tử để tương tác với hệ thống phần mềm trên thời gian thực, có nghĩa là máy tính có khả năng nhận biết được tín hiệu vào của người sử dụng và thay đổi tương ứng ngay lập tức thế giới ảo. Nhờ các thiết bị này mà việc “ảo hóa” trên “không gian ảo” có tác động toàn diện đến mọi cảm giác của con người như ở trên không gian thực. Trong nhiều trường hợp, chất lượng cảm nhận của con người trên không gian ảo thậm chí còn tốt hơn khi con người ở không gian thực vì thông thường các công nghệ hỗ trợ sẽ điều chỉnh (theo hướng tốt lên) để phù hợp nhất với đặc tính các giác quan, tâm lý của con người.

Phần mềm thường được cài đặt trên máy tính để tạo hình ảnh và mô phỏng về đối tượng, thông qua việc xử lý của máy tính với tín hiệu đầu vào, đầu ra (từ thiết bị đầu vào, đầu ra của hệ thống sử dụng Công nghệ thực tế ảo) để có thể chuyển tải âm thanh, hình ảnh về đối tượng khi có tương tác của con người, đúng với các nguyên tắc về vật lý như khí động học, cơ học, ánh sáng…

Bảo tàng ảo về dòng tranh Đông Hồ bao gồm các ứng dụng công nghệ về quản trị dữ liệu với nhiều dạng dữ liệu như: văn bản, âm thanh, hình ảnh, video, ảnh 3D, video 3D, mô phỏng 3D…; các phần mềm hỗ trợ hiển thị dữ liệu và tương tác với người sử dụng qua internet.

Bảo tàng ảo dòng tranh Đồng Hồ sẽ tạo nên không gian gian văn hóa ảo trên môi trường mạng. Đây là kênh có thể công bố ảnh gốc để bán, để giữ bản quyền và tránh các dị bản có thể đến mức quá khác so với tranh gốc. Bảo tàng này có thể liên kết với các hệ thống thông tin về di sản của Cục Di sản văn hóa, Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam, Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam… để tạo nên một hệ thống thông tin một cách chính thông rất có giá trị về văn hóa. Đây là một kênh truyền thông hiệu quả để Làng Đông Hồ (xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) giới thiệu với khách du lịch giá trị văn hóa truyền thống của làng nói riêng và Việt Nam nói chung.

  1. Đề xuất một số nhiệm vụ và giải pháp về chính sách

3.1.      Giữ gìn bản sắc truyền thống của dòng tranh Đông Hồ

- Tổ chức nghiên cứu một cách nghiêm túc có sự phối hợp với các nghệ nhân của làng Đông Hồ về việc ứng dụng công nghệ trong quy trình sản xuất dòng tranh Đồng Hồ. Trong đó cần làm rõ công đoạn cần áp dụng công nghệ, những công đoạn chỉ có thể thực hiện bằng các phương pháp truyền thống trên tinh thần phải giữ gìn tối đa các giá trị văn hóa, truyền thống của làng nghề.

- Nâng cao khả năng ứng dụng công nghệ trong sáng tạo tác phẩm trên nền tảng các giá trị truyền thống của dòng tranh; giữ gìn công đoạn sản xuất tranh bằng hình thức truyền thống.

- Cần có cơ chế phối hợp trong hoạt động cung ứng nguyên vật liệu từ các làng nghề khác (như sản xuất giấy dó, bột vỏ sò điệp, gỗ để khắc mẫu in…) nhằm tạo sự chủ động trong các công đoạn sản xuất dòng tranh Đông Hồ.

3.2.      Ứng dụng công nghệ phát huy giá trị trên không gian mạng

- Ứng dụng công nghệ thông tin để phát huy giá trị “Bảo tàng ảo về dòng tranh Đông Hồ” trên không gian mạng để quảng bá giá trị văn hóa của dòng tranh và một làng nghề truyền thống của Việt Nam.

- Tỉnh Bắc Ninh có chính sách, cơ chế và được công khai trên các trang thương mại điện tử để các công ty lữ hành, kinh doanh dịch vụ du lịch có thể dẫn khách du lịch đến tham quan làng nghề; tại làng Đông Hồ cần tạo được một không gian mở để khách du lịch có thể cùng tham gia hoạt động sản xuất tranh và có thể mang bức tranh họ tự làm được như là một món quà kỷ niệm.

- Tỉnh Bắc Ninh phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong việc xây dựng và phát triển chuỗi hoạt động sản xuất dòng tranh Đông Hồ để trở thành một dịch vụ văn hóa, dịch vụ du lịch văn hóa, một dịch vụ của ngành công nghiệp văn hóa và xa hơn là một thương hiệu quốc gia về văn hóa như chủ trương mà hiện nay Đảng và Chính phủ rất quan tâm.

3.3.      Ứng dụng công nghệ để nghệ nhân trao truyền giá trị văn hóa

- Tỉnh Bắc Ninh cần xây dựng chính sách để duy trì và phát triển (dưới dạng truyền nghề) đội ngũ nghệ nhân sáng tác, nghệ nhân cắt (khắc) ván chạm trỗ, nghệ nhân pha màu, trộn màu với điệp, nghệ nhân in tranh… Trong đó cần chú trọng ứng dụng công nghệ mới đối với hoạt động sáng tạo khuôn in, khắc ván để có thể linh hoạt thay đổi khuôn mẫu (thậm chí in thử trên máy tính) trước khi ra mẫu trên khuôn gỗ và in trên giấy dó.

- Ứng dụng công nghệ trong việc lưu trữ các tư liệu phục vụ trao truyền các kỹ thuật làm tranh, các công đoạn quan trọng để hỗ trợ cho thế hệ đi sau có thể tiếp nối, phát huy giá trị văn hóa truyền thống của cha ông từ việc chọn gỗ, chọn loại giấy, chọn loại vỏ sò điệp, cách phối hợp giữa phần họa và phần chữ…

Tóm lại, trong nội dung báo cáo này, tôi muốn nhận mạnh việc ứng dụng công nghệ nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dòng tranh dân gian Đông Hồ trong đời sống đương đại là điều rất cần thiết. Nhưng các giá trị truyền thống của làng nghề cần phải được bảo tồn, giữ gìn hoàn toàn cụ thể là các hoạt động để hình thành được bức tranh. Để phát huy giá trị dòng tranh này trong thời đại internet kết nối vạn vật, dữ liệu lớn, công nghệ ảo hóa… thì nhất thiết phải ứng dụng khoa học, công nghệ. Các giá trị văn hóa, truyền thống cần được phát huy trên không gian mạng. Đây là một kênh truyền thông rất hiệu quả để các giá trị này đến với nhân dân ở trong nước, bạn bè và khách du lịch quốc tế.



[1] Kim Dung, “Tranh dân gian Đông Hồ”, Tạp chí điện tử Thế giới Di sản: http://thegioidisan.vn/vi/tranh-dan-gian-dong-ho.html

[2] Lịch sử Tranh Đông Hồ: http://vufo.org.vn/Lich-su-Tranh-Dong-Ho (truy cập tháng 10/2019)

[3] Nghị quyết Số 52-NQ/TW ngày 27 tháng 9 năm 2019 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa 12

Dương Viết Huy