Trên thế giới, việc ứng dụng công nghệ trong phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, thể thao, du lịch và các dịch vụ kèm theo được các quốc gia phát triển như Mỹ, Nhật, Hàn Quốc… hết sức chú trọng. Các công nghệ hiện đại của cuộc Cách mạng công nghiệp (CMCN) lần thứ tư như công nghệ âm thanh, ánh sáng và thực tại ảo, công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ di truyền, công nghệ tế bào, công nghệ truyền dẫn internet băng thông rộng, công nghệ robot và điều khiển thông minh… Các nghệ này liên tục được cập nhật đã thay đổi mạnh mẽ thói quen và khả năng tiếp cận, hưởng thụ các dịch vụ lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch; góp phần nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm, mang lại hiệu quả về quản lý, lợi ích kinh tế lớn cho nhà nước, cá nhân và doanh nghiệp.
Ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, hoạt động ứng dụng công nghệ trong các lĩnh vực của nền kinh tế nói chung, lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch nói riêng chủ yếu tự phát mà chưa có định hướng, chính sách cụ thể để tập trung đầu tư nên hoạt động ứng dụng công nghệ chưa đáp được yêu cầu, cụ thể:
Về ứng dụng công nghệ của công nghiệp 4.0: Các hoạt động ứng dụng mới dừng ở mức ứng dụng công nghệ thông tin thuần túy, còn thiếu các ứng dụng công nghệ cụ thể để tạo thành sản phẩm đặc thù của ngành, nổi trội và mang lại hiệu quả trong quản lý, hiệu quả kinh tế trong cung cấp dịch vụ văn hóa, thể thao, du lịch.
Về cơ sở dữ liệu chuyên ngành và ứng dụng công nghệ trên nền tảng cơ sở dữ liệu: Hiện nay, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chưa có dữ liệu chuyên ngành trên quy mô quốc gia nhằm phục vụ công tác quản lý nhà nước. Một số dữ liệu đã hình thành như du lịch, di sản văn hóa nhưng chưa đáp ứng yêu cầu về quản lý và cung cấp dịch vụ trên nền tảng công nghệ. Nhu cầu số hóa trong lĩnh vực nghệ thuật, điện ảnh, di sản văn hóa thể dục thể thao rất lớn. Ngoài ra, hoạt động chuẩn hóa, liên kết, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan, đơn vị lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch ở Trung ương và địa phương chưa tạo thành một chỉnh thể dữ liệu thống nhất nhằm tạo điều kiện ứng dụng công nghệ đối với dữ liệu lớn chuyên ngành văn hóa, thể thao, du lịch trên phạm vi toàn quốc.
Nhân lực ngành văn hóa, thể thao, du lịch trong xu thế phát triển của CMCN lần thứ tư còn mỏng và yếu: Xuất phát từ đặc điểm ngành nghề, hầu hết nhân lực làm công tác văn hóa, thể thao, du lịch chưa được trang bị kiến thức cơ bản về công nghệ đặc biệt là công nghệ cao, việc tiếp cận thành tựu mới về công nghệ còn chậm đặc biệt trong các tổ chức biểu diễn, sáng tạo văn hóa – nghệ thuật. Hoạt động đào tạo nguồn nhân lực cho thị trường lao động ngành văn hóa, thể thao, du lịch chưa theo kịp xu thế ứng dụng công nghệ của thị trường lao động do vậy chưa tạo lập được hệ sinh thái công nghệ với các ngành khác có liên quan trên nền tảng công nghệ của CMCN lần thứ tư.
Về nguồn lực tài chính: Mặc dù lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch có tính lan tỏa sâu, rộng, lâu dài nhưng do đặc thù (đặc biệt đối với lĩnh vực văn hóa) là chưa mang lại hiệu quả kinh tế ngay, tính rủi ro cao và hiệu quả kinh tế chưa rõ ràng nên ít doanh nghiệp đầu tư dẫn đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp còn yếu, hệ sinh thái công nghệ cho khởi nghiệp lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch còn yếu. Hiện nay, nguồn vốn để Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch triển khai ứng dụng công nghệ của CMCN lần thứ tư chủ yếu được bố trí lồng ghép với các nhiệm vụ khác từ nguồn chi ngân sách nhà nước nên chưa đáp ứng được quy mô và yêu cầu thực tiễn hoạt động ứng dụng công nghệ của Bộ.
Trong thời gian qua, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã quan tâm, ban hành các Văn bản cho hoạt động ứng dụng công nghệ, công nghệ thông tin, chuyển đổi số lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch như: Quyết định số 1755/QĐ-TTg ngày 08/9/2016 phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Quyết định số 1671/QĐ-TTg ngày 30/11/2018 phê duyệt “Đề án tổng thể ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực du lịch giai đoạn 2018-2020, định hướng đến năm 2025; Quyết định số 206/QĐ-TTg ngày 11/02/2021 phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số ngành thư viện đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”; Quyết định số 2026/QĐ-TTg ngày 02/12/2021 phê duyệt “Chương trình số hóa Di sản văn hóa Việt Nam giai đoạn 2021-2030”…
Tuy nhiên, với thực tiễn hoạt động ứng dụng công nghệ của ngành trong bối cảnh phát triển công nghệ của CMCN lần thứ tư, việc lựa chọn sản phẩm chủ lực của ngành và liên ngành phù hợp với xu thế phát triển của lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch cần có bước chuyển đổi mạnh mẽ. Do vậy, Đề án là cơ sở quan trọng để Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tập trung đầu tư và có kế hoạch triển khai xây dựng sản phẩm chủ lực của ngành nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, cung cấp sản phẩm hàng hóa, dịch vụ văn hóa, thể thao, du lịch mang lại nguồn thu cho ngân sách, tạo công ăn việc làm, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân trong quá trình phát triển đất nước.
Định hướng ứng dụng công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030 – chú trọng lĩnh vực văn hoá.
a) Ứng dụng công nghệ số trong sản xuất, phổ biến, trình chiếu tác phẩm điện ảnh Xây dựng sản phẩm chủ lực lĩnh vực điện ảnh: Sản xuất, quảng bá, xúc tiến và trình chiếu tác phẩm điện ảnh theo công nghệ số; cung cấp dịch vụ kỹ thuật số, phát hành phim trực tuyến, kết nối khán giả với điện ảnh. Ứng dụng công nghệ thực tế ảo, số hóa dữ liệu phim, thu thập, lưu trữ thông tin liên quan đến ngành phục vụ nguồn dữ liệu lớn; bảo đảm bản quyền trong công tác phát hành, phố biến phim trên không gian mạng.
b) Ứng dụng công nghệ trong truyền dạy, nghệ thuật biểu diễn Nghiên cứu và xây dựng sản phẩm công nghệ nhằm truyền dạy nghệ thuật truyền thống và nghệ thuật đương đại bằng công nghệ số; hình thành một chuỗi hoạt động ứng dụng công nghệ gắn với nghệ thuật biểu diễn: Từ số hóa, mô phỏng để lưu trữ các bí quyết bằng âm thanh, hình ảnh, cử chỉ sắc thái nghệ thuật đến hoạt động nghiên cứu, đào tạo nhân lực nghệ thuật. Ứng dụng công nghệ trong sáng tạo, hình thành tác phẩm văn hóa – nghệ thuật, phát huy giá trị văn hóa, tư tưởng, giá trị nghệ thuật của Việt Nam. Ứng dụng công nghệ âm thanh, ánh sáng hiện đại trong biểu diễn nghệ thuật phù hợp với xu hướng mới của nghệ thuật đương đại.
c) Xây dựng hệ thống thông tin ngành di sản văn hóa, ứng dụng công nghệ trong công tác bảo tàng, tu bổ phục hồi di tích Thực hiện theo Quyết định số 2026/QĐ-TTg ngày 02/12/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình Số hóa di sản văn hóa Việt Nam, giai đoạn 2021 – 2030. Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về di sản văn hóa được hình thành từ việc liên kết dữ liệu di sản số của các địa phương và đơn vị thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vào hệ thống phần mềm thông tin quản lý về bảo tàng, hiện vật, di tích, di sản văn hóa phi vật thể hiện đang triển khai trên phạm vi toàn quốc. Xây dựng quy trình xử lý, bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích: Ứng dụng công nghệ mới như GIS, GPS, Lidar trong khảo sát, công nghệ sinh học, công nghệ Nano trong bảo quản hiện vật và vật liệu cấu thành di tích; quy trình xử lý, bảo tồn, bảo quản tài liệu (di sản thành văn) trong thư viện, bảo tàng… Xây dựng hệ thống trưng bày và thuyết minh tương tác trong bảo tàng: Ứng dụng công nghệ tương tác sử dụng trong trưng bày và thuyết minh tham quan tại bảo tàng, bao gồm: Thiết bị hỗ trợ hoạt động tương tác giữa khách tham quan với 8 trưng bày bảo tàng (máy tính, màn hình cảm ứng đa điểm, thiết bị thông minh,…) và cơ sở dữ liệu nội dung số, nội dung tương tác thông minh tự động hỗ trợ khách tham quan tìm hiểu trưng bày (hiện vật 3D, nội dung trưng bày, thuyết minh tương tác có trao đổi với khác tham quan, ứng dụng trên điện thoại thông minh có khả năng tạo tài khoản người dùng riêng biệt,…). Xây dựng quy trình xử lý, bảo quản, bảo vệ hiện vật trong bảo tàng: Ứng dụng công nghệ trong giám sát và tự điều chỉnh môi trường (nhiệt độ, độ ẩm, chất lượng không khí hoặc phát hiện và ngăn chặn sự xuất hiện của côn trùng,…), tình trạng hiện vật trong bảo tàng; ứng dụng hệ thống công nghệ (phần cứng, phần mềm) trong giám sát hiện vật 24/7 tại bảo tàng.
d) Xây dựng hệ thống thông tin về bản quyền tác giả Xây dựng hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu về quyền tác giả, quyền liên quan đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học. Triển khai nội dung ứng dụng công nghệ theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ (Luật số 07/2022/QH15) và văn bản hướng dẫn thi hành. Trong đó tập trung việc sử dụng công nghệ trong công tác đăng ký, quản lý, thực thi bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan trên môi trường mạng Internet. Xây dựng hệ thống bản đồ các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam.
đ) Xây dựng thư viện số, liên thông thư viện số Thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm và mục tiêu đề ra theo Quyết định số 206/QĐ-TTg ngày 11/02/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số ngành thư viện đến năm 2025, định hướng đến năm 2030″. Xây dựng thư viện số: Ứng dụng công nghệ số và tuân thủ các tiêu chuẩn quốc gia/quốc tế để xây dựng và phát triển công nghiệp nội dung cho thư viện số, tự động hóa thư viện. Xây dựng cơ sở dữ liệu số: Xây dựng cơ sở dữ liệu thư viện Việt Nam; Tích hợp cơ sở dữ liệu gồm cơ sở dữ liệu toàn văn, cơ sở dữ liệu thư mục các xuất bản phẩm ở Việt Nam, các bài báo, tạp chí khoa học, các công trình nghiên cứu khoa học, các loại tài liệu có giá trị (tài liệu tham khảo, tài liệu quý hiếm, tài liệu có hàm lượng tri thức cao…) từ các thư viện trong cả nước, từ các tổ chức, đơn vị, cá nhân khác có tiềm lực (các nhà xuất bản, các tổ chức trong và ngoài nước, hiệp hội nghề nghiệp,… các cá nhân có cung cấp sản phẩm thông tin số). Kết nối, liên thông thư viện: Liên kết nguồn lực thông tin dữ liệu số, nguồn lực thông tin dùng chung của các thư viện, các trung tâm thông tin trong cùng hệ 9 thống hoặc theo khu vực địa lý, xây dựng và cung cấp các sản phẩm, dịch vụ thông tin thư viện hiện đại qua môi trường số và các ứng dụng thông minh.
e) Xây dựng hệ thống thông tin lĩnh vực mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm Xây dựng cơ sở dữ liệu lĩnh vực mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm (ứng dụng công nghệ số hóa, lưu trữ, kết nối và khai thác hệ thống dữ liệu lớn). Cụ thể: Ứng dụng công nghệ số trong xây dựng kho lưu trữ tác phẩm mỹ thuật, nhiếp ảnh để có thể kết nối, chia sẻ trên môi trường internet, bảo đảm vấn đề quyền tác giả và quyền liên quan của tác phẩm; ứng dụng công nghệ trong giám định tác phẩm mỹ thuật, nhiếp ảnh thông qua cơ sở dữ liệu gốc. Xây dựng quy trình xử lý phổ biến, lưu trữ, dịch vụ lĩnh vực mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm (ứng dụng công nghệ thực tế ảo, công nghệ số, trí tuệ nhân tạo). Ứng dụng công nghệ thông minh như quét mã, trưng bày 3D, thực tế ảo…
Dương Viết Huy
