Từ năm 2017, thực hiện Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 04 tháng 5 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ tư, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch đã chỉ đạo từ nay đến năm 2020 tập trung xây dựng sản phẩm chủ lực trên các lĩnh vực: du lịch, thể thao và các ngành công nghiệp văn hóa (Quyết định số 4610/QĐ-BVHTTDL ngày 28/11/2017 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch). Theo đó, định hướng danh mục sản phẩm chủ lực của ngành văn hóa, thể thao và du lịch giai đoạn 2017-2020 bao gồm 02 nhóm sản phẩm: Nhóm sản phẩm phục vụ du lịch thông minh; Nhóm sản phẩm thuộc các ngành công nghiệp văn hóa. Cụ thể:

- Lĩnh vực Du lịch với các sản phẩm phục vụ du lịch thông minh: Du lịch thực tế ảo; Hệ thống quản lý điểm đến hỗ trợ hoạt động lữ hành, lưu trú; Thẻ du lịch đa năng; Phần mềm thuyết minh du lịch tự động.

- Lĩnh vực Thể dục thể thao với các sản phẩm: Quy trình kiểm tra, chăm sóc sức khỏe, giám định khoa học và điều trị chấn thương cho vận động viên; Quy trình tuyển chọn đào tạo vận động viên thể thao; Hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu TDTT phục vụ nghiên cứu khoa học, thể thao cho mọi người và thể thao thành tích cao.

- Lĩnh vực Điện ảnh với các sản phẩm là tác phẩm điện ảnh sản xuất và trình chiếu theo công nghệ số.

- Lĩnh vực Nghệ thuật biểu diễn với các sản phẩm, dịch vụ biểu diễn nghệ thuật sử dụng công nghệ âm thanh, ánh sáng hiện đại; Truyền dạy nghệ thuật truyền thống và đương đại bằng công nghệ số.

- Lĩnh vực Di sản văn hóa: Quy trình xử lý, bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích; Hệ thống trưng bày và thuyết minh tương tác trong bảo tàng; Quy trình xử lý, bảo quản hiện vật trong bảo tàng; Cơ sở dữ liệu ngành di sản văn hóa.

- Lĩnh vực thư viện với sản phẩm thư viện số.

Như vậy, từ 2017 đến năm 2020, lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch cần tập trung xây dựng các sản phẩm theo định hướng trên. Để việc thực hiện có hiệu quả và đồng bộ Quyết định số 4610/QĐ-BVHTTDL trên phạm vi cả nước trong việc thực hiện Chỉ thị số 16/CT-TTg nói chung và định hướng sản phẩm chủ lực của ngành văn hóa, thể thao và du lịch giai đoạn 2017-2020 nói riêng, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã có công văn hướng dẫn Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Văn hóa và Thể thao, Sở Du lịch các tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương.

Việc phân công trách nhiệm của các chủ thể

a)      Cơ quan quản lý Nhà nước

Theo Định hướng danh mục sản phẩm chủ lực của ngành văn hóa, thể thao và du lịch giai đoạn 2017-2020, cơ quan quản lý nhà nước đối với 06 lĩnh vực gồm: Tổng cục Du lịch (lĩnh vực Du lịch), Tổng cục Thể dục thể thao (lĩnh vực Thể dục thể thao), Cục Điện ảnh (lĩnh vực Điện ảnh), Cục Nghệ thuật Biểu diễn (lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn), Cục Di sản văn hóa (lĩnh vực di sản văn hóa), Vụ Thư viện (lĩnh vực thư viện). Ngoài ra các tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương còn có các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Văn hóa và Thể thao, Sở Du lịch. Đây là chủ thể quan trọng trực tiếp sử dụng các công nghệ mới trong việc nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước và  trong việc đề xuất chính sách, giải pháp phù hợp với thực tiễn, đặt hàng doanh nghiệp, các tổ chức khoa học công nghệ nghiên cứu, sản xuất thực hiện các sản phẩm chủ lực có liên quan như big data, quản lý điểm đến, kết nối, chính phủ điện tử, dịch vụ công…

b)     Đơn vị sự nghiệp thuộc Bộ

Theo Quyết định số 527/QĐ-TTg ngày 15/05/2018 của Thủ tướng Chính phủ Ban hành danh sách các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, hiện có 55 đơn vị sự nghiệp trong đó phần lớn là cơ sở đào tạo nhân lực văn hóa, thể thao, du lịch (với 26 cơ sở gồm 12 trường đại học, học viện, nhạc viện, 12 trường cao đẳng và 02 trường trung cấp), 11 nhà hát, 4 bảo tàng… Các đơn vị sự nghiệp xây dựng các sản phẩm chủ lực như thuyết minh tự động, tăng cường thực tế ảo, giáo trình điện tử, kết hợp âm thanh, áng sáng trong biểu diễn nghệ thuật, số hóa trong lưu trữ phim điện ảnh…

c)      Doanh nghiệp

Từ đầu năm 2014, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 19/NQ-CP về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Từ đó đến nay, hàng năm Chính phủ ban hành Nghị quyết, năm 2018 là Nghị quyết số 19-2018/NQ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2018 và những năm tiếp theo. Điều này đã thể hiện quyết tâm của Chính phủ trong việc hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển.

Các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch chủ yếu vẫn dựa trên việc ứng dụng, sử dụng các sản phẩm khoa học kỹ thuật. Một số ít doanh nghiệp lớn về du lịch như Saigontourist, Vietravel, Vietrantour, Viet Media Travel, Vietnamtourism… đã chủ động phát triển sản phẩm dịch vụ cung cấp thông tin đến khách du lịch trên môi trường internet. Năm 2017, ở Việt Nam ước tính có khoảng 30.000 – 35.000 doanh nghiệp dịch vụ du lịch. Trong đó chỉ mới doanh nghiệp du lịch lớn (chiếm 20% thị phần khách du lịch) ứng dụng tốt công nghệ thông tin, còn lại các doanh nghiệp nhỏ và vừa (chiếm 80% thị phần khách du lịch) ứng dụng công nghệ thông tin ở mức độ đơn giản, phần lớn là dựa trên các công cụ có sẵn như mạng xã hội (facebook, Zalo) chưa có những ứng dụng tích hợp nền tảng để tập trung và phân tích dữ liệu để chăm sóc khách hàng hiệu quả; hầu hết các hướng dẫn viên của các hãng lữ hành nhỏ dùng điện thoại để trao đổi thông tin. Trong lĩnh vực du lịch, thị trường các sản phẩm công nghệ phục vụ du lịch thông minh hiện như còn bỏ ngõ.

Thị trường các sản phẩm dịch vụ ở các lĩnh vực khác như ứng dụng công nghệ gen, công nghệ y sinh học (trong lĩnh vực thể dục thể thao), công nghệ 3D, 4D, 5D trong lĩnh vực điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, công nghệ GIS ứng dụng trong lĩnh vực văn hóa, du lịch, di sản văn hóa; công nghệ kết nối, chia sẻ dữ liệu lớn (big data) về các đối tượng quản lý của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch gần như chưa được khai phá.

Như vậy, với điều kiện thực tế hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh các sản phẩm, dịch vụ về văn hóa, thể thao, du lịch thì thị trường để xây dựng và phát triển các sản phẩm theo Định hướng danh mục sản phẩm chủ lực của ngành văn hóa, thể thao và du lịch giai đoạn 2017-2020 gần như còn bỏ trống. Các nhà quản lý ngành/lĩnh vực cần kịp thời ban hành cơ chế, chính sách tạo điều kiện cho doanh nghiệp khai thác thị trường và phát huy hiệu quả kinh doanh trên nền tảng công nghệ mới là thành tựu của CMCN lần thứ 4.

Chủ trương của Đảng và Nhà nước, nhu cầu của xã hội.

Hội nghị Trung ương 9 khóa XI đã khẳng định mục tiêu “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nghị quyết của Hội nghị cũng đã đặt ra nhiệm vụ về khuyến khích đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm văn hóa; Tập trung đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và sự bùng nổ của công nghệ thông tin và truyền thông.

Lĩnh vực thể dục, thể thao, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 01 tháng 12 năm 2011 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã chỉ rõ: “Phát triển thể dục, thể thao là một yêu cầu khách quan của xã hội, nhằm góp phần nâng cao sức khoẻ, thể lực và chất lượng cuộc sống của nhân dân, chất lượng nguồn nhân lực; giáo dục ý chí, đạo đức, xây dựng lối sống và môi trường văn hóa lành mạnh, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác quốc tế” và đặt mục tiêu “… tăng cường cơ sở vật chất, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, công nghệ làm nền tảng phát triển mạnh mẽ và vững chắc sự nghiệp thể dục thể thao”.

Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16 tháng 01 năm 2017 của Bộ Chính trị (Khóa XII) về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn đã đặt ra các giải pháp trong đó chú trọng đến ứng dụng thành tựu của khoa học và công nghệ như: tăng cường ứng dụng công nghệ hiện đại trong xúc tiến quảng bá du lịch; Đẩy mạnh ứng dụng khoa học – công nghệ tiên tiến trong đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực du lịch; triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động quản lý thuế, phí để chống thất thu trong nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước về du lịch. Luật Du lịch năm 2017 (Luật số 09/2017/QH14 ngày 19 tháng 6 năm 2017) đã chỉ rõ Nhà nước có chính sách khuyến khích, hỗ trợ cho các hoạt động “Ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại phục vụ quản lý và phát triển du lịch”, Nguyên tắc lập quy hoạch về du lịch cũng đã chỉ rõ “Bảo đảm tính khoa học, ứng dụng công nghệ hiện đại trong quá trình lập quy hoạch; đáp ứng tiêu chuẩn, quy chuẩn và phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước”; về Trách nhiệm quản lý nhà nước về du lịch của Chính phủ phải “Tổ chức, quản lý hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch; nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ trong lĩnh vực du lịch; hướng dẫn về giao dịch điện tử trong lĩnh vực du lịch”. Thông tư hướng dẫn Luật Du lịch (Thông tư 06/2017/TT-BVHTTDL ngày 15 tháng 12 năm 2017) quy định chi tiết một số Điều của Luật Du lịch trong đó ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và phát triển doanh nghiệp chỉ được thực hiện trong công tác bồi dưỡng nghiệp vụ điều hành du lịch. Bên cạnh đó, tính đến nay, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xây dựng và trình Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành 11 tiêu chuẩn quốc gia trong lĩnh vực du lịch.

Nhu cầu xã hội hiện nay: cần nắm bắt một cách chủ động để tận dụng tốt thời cơ, thành tựu của cách mạng 4.0 để nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước, sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, đổi mới phương thức hoạt động của các đơn vị sự nghiệp, tăng cường quảng bá các giá trị về văn hóa, vẻ đẹp về đất nước và con người Việt Nam … bằng cách ứng dụng thành tựu của cách mạng 4.0 là một yêu cầu có tính cấp thiết.

Như vậy, trước xu hướng phát triển và ứng dụng thành tựu của CMCN lần thứ 4, nhu cầu của xã hội nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống bằng sản phẩm công nghệ đã trở nên cần thiết và rất tự nhiên. Việc xây dựng các sản phẩm chủ lực của ngành văn hóa, thể thao và du lịch đáp ứng tình hình mới đòi hỏi sự vào cuộc đồng bộ của nhà quản lý hoạch định chính sách, của doanh nghiệp và toàn xã hội, cần chủ động thực hiện với phương châm “kiên trì và liên tục”.

Nhân lực để xây dựng sản phẩm chủ lực của ngành

Nhân lực là chủ thể quan trọng trong cuộc CMCN lần thứ 4. Xuất phát từ đặc điểm ngành nghề, hầu hết nhân lực làm công tác văn hóa, thể thao, du lịch chưa được trang bị nhiều kiến thức về khoa học, công nghệ đặc biệt là công nghệ cao, thành tựu mới về công nghệ. Về đào tạo nhân lực ngành văn hóa, thể thao và du lịch, theo Quyết định số 527/QĐ-TTg ngày 15/05/2018 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quản lý 26 cơ sở gồm 12 trường đại học, học viện, nhạc viện, 12 trường cao đẳng và 02 trường trung cấp. Việc trang bị kỹ năng về khoa học kỹ thuật, ứng dụng công nghệ trong công tác đào tạo nguồn nhân lực của ngành (phần lớn thuộc ngành là khoa học xã hội) đặt ra nhiều vấn đề quan trọng cần được giải quyết đồng bộ.

Như vậy, việc xây dựng sản phẩm chủ lực của ngành vẫn phụ thuộc phần lớn vào nguồn nhân lực của doanh nghiệp, nhân lực được đào tạo các ngành khoa học kỹ thuật, khoa học tự nhiên khác.

* Nhân lực tham mưu, phục vụ công tác quản lý của Bộ

Hiện nay, nhân lực có kiến thức nền tảng để có thể nắm bắt, hiểu biết về các công nghệ là thành tựu của CMCN lần thứ 4 còn thiếu và yếu. Trong xu thế phát triển như vũ bão của công nghệ, thì việc chỉ ứng dụng công nghệ thông tin vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong đó nguồn nhân lực công nghệ thông tin vẫn còn thiếu hụt nghiêm trọng. Các ngành khoa học kỹ thuật, công nghệ khác để xây dựng và phát triển sản phẩm chủ lực (như công nghệ nano, công nghệ vật liệu, các công nghệ trên nền tảng dữ liệu số…) hầu như thiếu vắng hoàn toàn. Chính vì sự thiếu hụt nguồn nhân lực này nên công tác tham mưu về chính sách, giải pháp trong việc ứng dụng công nghệ cao phục vụ quản lý nhà nước chưa đạt hiệu quả như mong muốn.

Nguồn lực tài chính

Giai đoạn, 2017 – 2020, hệ thống tài chính chưa có mục lục chi ngân sách riêng cho các hoạt động ứng dụng công nghệ cao là thành tựu của cuộc CMCN lần thứ 4. Việc ứng dụng khoa học, công nghệ (chủ yếu chỉ dành mua sắm thiết bị công nghệ thông tin) vẫn sử dụng nguồn chi thường xuyên với tỉ trọng khoảng dưới 4% kinh phí (tùy thuộc cân đối) của đơn vị. Nguồn lực tài chính ít ỏi này chưa đủ đáp ứng nhu cầu ứng dụng công nghệ thông tin (đây mới chỉ là một phần nhỏ của thành tựu cuộc CMCN lần thứ 4). Vì vậy, việc xây dựng các sản phẩm chủ lực của ngành cần có sự vào cuộc của nhà nước (trong việc hỗ trợ cơ chế chính sách phát triển) để tạo điều kiện cho doanh nghiệp được tham gia và cung cấp ra thị trường những sản phẩm công nghệ đáp ứng nhu cầu của xã hội cũng như hỗ trợ công tác quản lý ngành đạt hiệu quả hơn.

Một số kết quả và sản phẩm đã triển khai, thực hiện:

Một số địa phương, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp thuộc ngành văn hóa, thể thao và du lịch đã chủ động áp dụng một số công nghệ mới vào xây dựng một số sản phẩm bằng nguồn chi thường xuyên và xã hội hóa hoặc tự có của đơn vị như: Hà Nội đã xây dựng được 18 điểm đến với thuyết minh tự động với 5 ngôn ngữ cơ bản phục vụ du khách; doanh nghiệp du lịch cũng xây dựng việc quảng bá và bán hàng trực tuyến, du lịch thực tế ảo; một số di tích như di tích Huế xây dựng sản phẩm tham quan cố đô bằng thực tế ảo tang cường nhằm quảng bá phục vụ du khách; Một số Trung tâm biểu diễn Nghệ thuật tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh ứng dụng công nghệ âm thanh kết hợp ánh sáng hiện đại trong các hoạt động trình diễn nghệ thuật, âm nhạc; số hóa các tài liệu lưu trữ trong hệ thống thư viện…

Một số địa phương đã chủ động đặt hàng nghiên cứu đề tài cấp Nhà nước về một số sản phẩm du lịch thông minh như ( Nghiên cứu phát triển du lịch thông minh “con đường di sản miền trung”) với mục tiêu: xây dựng cơ sở dữ liệu về con đường di sản miền trung và phát triển hệ thống quảng bá, hỗ trợ du khách và cơ quan quản lý Nhà nước dựa trên các công nghệ hiện đại; kết quả nghiên cứu với các sản phẩm: Hệ thống cơ sở dữ liệu đa phương tiện, các đề tài nghiên cứu khoa học, thông tin điểm đến, thông tin hiện vật, dữ liệu có khả năng hiển thị được trên bản đồ số và tương tác được với người dùng, dữ liệu được hỗ trợ tối thiểu 4 ngôn ngữ cơ bản, có khả năng tích hợp/ liên kết với cơ sở dữ liệu đa phương tiện, có chức năng quản trị, phân quyền cập nhật đầy đủ, chính xác, truy cập nhanh thông tin; hệ thống quảng bá du lịch, hỗ trợ du khách và cơ quan quản lý Nhà nước;, hỗ trợ doanh nghiệp và ứng dụng công nghệ thực tế ảo tăng cường để giúp du khách nắm được thông tin của điểm đến, hiện vật…hay đề tài “ Ứng dụng công nghệ 3D trong đào tạo và quảng bá văn hóa phi vật thể – nghiên cứu giảng dạy nghệ thuật truyền thống của dân tộc”; nghiên cứu xây dựng cơ sở dữ liệu điểm đến, thẻ du lịch đa năng, hỗ trợ thông tin để phục vụ du khách và cơ quan quản lý Nhà nước…

Có thể nói, các địa phương và các doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp đã chủ động xây dựng một số sản phẩm chủ lực dưới các hình thức : Đề xuất thành đề tài, dự án nghiên cứu cấp Nhà nước, cấp Bộ, cấp cơ sở; đề xuất xây dựng các Dự án khoa học công nghệ như các Khu công nghệ cao, doanh nghiệp KHCN đặc thù liên kết với nước ngoài hoặc các dự án ứng dụng công nghệ hiện đại để xây dựng một số sản phẩm cụ thể sử dụng nguồn ngân sách Nhà nước về khoa học công nghệ, nguồn tự có của địa phương, đơn vị hoặc tài trợ của các tổ chức quốc tế.

Một số trao đổi về cách thức triển khai xây dựng các sản phẩm chủ lực đã được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phê duyệt giai đoạn 2017-2020.

Yêu cầu đối với đơn vị thuộc Bộ:

- Chủ động xây dựng lộ trình ứng dụng CM4.0 trong việc xây dựng các sản phẩm phù hợp của đơn vị mình, ưu tiên các sản phẩm chủ lực đã được Bộ trưởng Bộ VHTTDL phê duyệt;

- Chủ động bố trí nguồn vốn của đơn vị hàng năm để xây dựng sản phẩm và ứng dụng vào thực tiễn hoạt động của đơn vị mình;

- Bố trí, tuyển dụng, bồi dưỡng nguồn nhân lực am hiểu công nghệ mới để có thể tham mưu, ứng dụng các công nghệ mới vào hoạt động của đơn vị.

Đề xuất nghiên cứu dưới dạng hình thành các đề tài, dự án khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ và cấp cơ sở:

a) Đề tài, dự án cấp Nhà nước:

Căn cứ danh mục các sản phẩm chủ lực đã được phê duyệt các đơn vị thuộc Bộ đề xuất các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước để Bộ tổng hợp đặt hàng với Bộ Khoa học Công nghệ xem xét đưa vào kế hoạch hằng năm. Ưu tiên các sản phẩm chủ lực phục vụ phát triển du lịch thông minh và các ngành công nghiệp văn hóa. Các đề xuất cần lưu ý:

- Thời gian đề xuất nhiệm vụ trong cả năm nhưng tốt nhất là 6 tháng đầu năm để Bộ kịp xem xét dặt hang với Bộ Khoa học và Công nghệ, phù hợp với tiến độ sử dụng nguồn kinh phí trong năm kế hoạch;

- Các tổ chức và cá nhân khi đề xuất nhiệm vụ phải phối hợp với các tổ chức, chuyên gia am hiểu công nghệ dự định ứng dụng để xây dựng sản phẩm chủ lực hỗ trợ tư vấn về mặt kỹ thuật cũng như khả năng phối hợp nghiên cứu thực hiện;

- Các tổ chức, cá nhân cần chuẩn bị đội ngũ nghiên cứu có đủ năng lực, am hiểu công nghệ để tham gia tuyển chọn khi Bộ Khoa học và Công nghệ đồng ý cho nghiên cứu. Việc đề nghị Bộ Khoa học và Công nghệ giao trực tiếp là rất khó được chấp nhận;

- Kết quả sau nghiên cứu ( có thể đơn vị trúng tuyển chọn trực tiếp nghiên cứu hoặc đơn vị khác trúng tuyển chọn bàn giao kết quả nghiên cứu cho đơn vị) đơn vị phải tổ chức ứng dụng có hiệu quả vào thực tiễn và chịu trách nhiệm báo cáo với Nhà nước, Bộ hàng năm.

b) Đề tài, dự án cấp Bộ:

Hàng năm, chậm nhất 10/3 các tổ chức, cá nhân phải đề xuất nhiệm vụ nghiên cứu khoa học có liên quan đến xây dựng sản phẩm chủ lực. Ưu tiên các sản phẩm chủ lực nằm trong danh mục đã được Bộ trưởng phê duyệt. Lưu ý:

- Các tổ chức và cá nhân khi đề xuất nhiệm vụ phải phối hợp với các tổ chức, chuyên gia am hiểu công nghệ dự định ứng dụng để xây dựng sản phẩm chủ lực Hố trợ tư vấn về mặt kỹ thuật cũng như khả năng phối hợp nghiên cứu thực hiện;

- Các tổ chức, cá nhân cần chuẩn bị đội ngũ nghiên cứu có đủ năng lực, am hiểu công nghệ để tham gia tuyển chọn khi Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đồng ý cho nghiên cứu;

- Kết quả nghiên cứu cần ứng dụng ngay vào thực tiễn của đơn vị, các đơn vị thuộc Bộ có liên quan;

c) Đề tài, dự án cấp cơ sở:

Bộ khuyến khích các đơn vị chủ động sử dụng nguồn vốn chi thường xuyên, quỹ phát triển sự nghiệp, doanh nghiệp, các nguồn vốn hợp pháp hợp pháp khác để xây dựng các sản phẩm ứng dụng CM4.0 phù hợp với hoạt động của đơn vị.

Trên đây là một số suy nghĩ về cách thức triển khai xây dựng các sản phẩm chủ lực của ngành văn hóa, thể thao và du lịch giai đoạn 2017-2020 để các quý vị đại biểu tham khảo, trao đổi và cùng nhau tìm ra cách thực tổ chức hiệu quả nhất việc triển khai xây dựng sản phẩm chủ lực của ngành.

Dương Viết Huy