Việt Nam hiện có 65 danh hiệu UNESCO về di sản thế giới, khu dự trữ sinh quyển, di sản tư liệu, công viên địa chất, di sản văn hóa phi vật thể…

Trong những năm gần đây, các danh hiệu UNESCO đã góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.

Các di sản văn hóa sau khi được UNESCO công nhận đã trở thành điểm đến du lịch hấp dẫn, góp phần cải thiện điều kiện sống và phát triển bền vững của các địa phương liên quan.

Ví dụ như Phố cổ Hội An ở Quảng Nam hay quần thể cảnh quan Tràng An ở Ninh Bình.

Năm 2019, 8 di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới tại Việt Nam đón hơn 21,3 triệu lượt du khách, trong đó có 10,6 triệu khách nước ngoài. Doanh thu từ bán vé du lịch và phí dịch vụ trực tiếp đạt 3,123 tỷ đồng.

Việc khai thác tài nguyên di sản văn hóa còn kéo theo sự phát triển của nhiều yếu tố khác như cơ sở hạ tầng, dịch vụ và mở rộng thương mại, tạo nên sự phát triển toàn diện và hài hòa.

Tuy nhiên, một số địa phương vẫn còn phải đối mặt với những thách thức giữa bảo tồn và phát triển. Phát triển kinh tế đôi khi không đồng bộ với việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa.

Các chuyên gia cho rằng cần có chính sách cụ thể để đảm bảo chuyển đổi bền vững sinh kế của người dân vùng di sản, đảm bảo khôi phục, bảo tồn các công trình lịch sử, văn hóa, bảo vệ đa dạng sinh học, nâng cao di sản, thúc đẩy hợp tác, liên kết giữa các địa phương liên quan.

Việt Nam đã có Câu lạc bộ Di sản Thế giới. Điều quan trọng là các di sản phát triển mối liên kết và chia sẻ kinh nghiệm với nhau, đồng thời, Câu lạc bộ Di sản Thế giới cũng tăng cường liên kết với các Di sản Thế giới trong khu vực và thế giới.

Di sản văn hóa là tài sản quý giá cần được duy trì, bảo tồn và phát huy. Vì vậy, Nhà nước phải quan tâm và có những chính sách, chiến lược phù hợp để đầu tư đúng, đủ và nhanh vào lĩnh vực này. Việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà của mọi người dân, mọi tổ chức, mọi cá nhân trong xã hội.

Ở cấp quốc gia, cần lồng ghép nội dung này vào chính sách phát triển kinh tế – xã hội tổng thể. Ở cấp địa phương, nó có thể được tích hợp vào các dự án hợp tác đầu tư và phát triển du lịch chiến lược. Hơn nữa, mô hình hợp tác công tư và tăng cường quan hệ đối tác nhiều bên nhằm bảo tồn và phát huy giá trị các danh hiệu UNESCO cần được khuyến khích.

Cần tận dụng công nghệ số trong công tác quảng bá truyền thông để tăng cường hiệu quả các chiến dịch quảng cáo hay xây dựng bản đồ các danh hiệu UNESCO tại Việt Nam. Việc quảng bá của Việt Nam cũng phải có mục tiêu và hấp dẫn trên trường quốc tế.

TLH